Giải Ảo Loạn Thế: Trần Viên Viên Thấu Rõ Chân Dung Tam Đế

Họ thì thầm trò chuyện, giọng khẽ mà gấp, tựa hai dòng suối nhỏ va vào nhau: "Giá gạo vẫn chưa đắt lắm...", "Nghe nói sắp truy thu lộc gạo...", "Nghe đồn là do người đàn bà ấy..."

Tôi dừng bước. Đứa trẻ ngước nhìn tôi, lòng trắng mắt trong như tuyết mới. Trong tay nó nắm ch/ặt nửa chiếc bánh bao ng/uội lạnh, trên mặt bánh dính chút bột th/uốc, vị đắng lẫn trong gió lạnh. Tôi kéo áo choàng lên cao, tiếp tục bước đi. Đế giày đ/è lên vết nứt trước sân, từ khe nứt mọc lên ngọn cỏ mảnh mai, co ro trong giá rét.

Đêm khuya, bên ngoài tường biệt viện bỗng ồn ào. Không phải binh lính, mà là đám du thủ du thực tụm năm tụm ba, tay xách đèn giấy, chữ trên đèn ng/uệch ngoạc: "Trừ Họa Thủy". Đèn giấy áp sát ngọn lửa quá, góc bị ch/áy xém, nhỏ giọt sáp xuống đ/á, đông cứng như giọt lệ trắng. Tôi nhìn họ qua cửa sổ, ánh mắt biến dạng sau lớp đèn giấy, tựa lưỡi d/ao dẹt.

Cổng viện không mở. Người ngoài cổng gào thét một hồi, gió cuốn tiếng hét đi, chỉ còn lại mùi dầu đèn và mồ hôi, đặc quánh, nhờn nhợn, buồn nôn. Từ xa vọng lại tiếng tù và ngắn từ lầu canh, binh tuần đêm gõ mõ gỗ đôm đốp, như lời cảnh báo trong lồng ng/ực. Đám người kia giải tán trước khi có kẻ thiếu niên ngoảnh lại liếc bức tường viện, trong mắt thoáng nỗi hoảng hốt, như bị thứ gì đó bỏng đầu ngón tay.

Hôm sau, xưởng khắc in càng đào sâu câu chuyện. Bản khắc mới thêm hình: người nữ tóc mây, tay áo dài tựa nước, một tay dắt đế vương, một tay dẫn thiết kỵ, thành môn nằm dưới vạt váy. Đường nét đ/ao khắc thô ráp, vân gỗ như sóng gió. Họ khắc gương mặt tôi hiền hòa, đuôi mắt rủ xuống, như đang nhận tội.

Tôi m/ua một tờ về. Đặt cạnh lò sưởi, hơi nóng làm mặt giấy hơi cong vênh, như muốn khuôn mặt giả tạo kia tự nhăn nhó. Khi tờ giấy cong lên trong hơi ấm, tôi nghe thấy bên ngoài cửa tiếng vó ngựa khẽ đáp - nhịp điệu không cờ xí.

Hắn không vào. Chỉ dừng bên ngoài tường một thoáng, ngửng đầu, như đang ngửi gió. Tôi không nhìn ra. Bên kia cánh cửa gỗ, tiếng ngựa phì phò, tiếng đai da cọ xát, tiếng bàn đạp sắt khẽ va, cùng hơi ấm từ chiếc cúc ngọc trong lòng bàn tay tôi, cùng lưu lại trong phòng một lát, rồi cùng biến mất.

Quá trưa, nha môn dán cáo thị: "Tai ương năm nay bắt ng/uồn từ ca vũ nội đình, thần dân nên tự cảnh tỉnh". Chữ to, mực đậm, như bức tường đen. Dưới bảng cáo tụ tập đông người. Kẻ gật đầu, người cười lạnh, có kẻ vén vạt áo gãi ngứa, để lộ vùng da đỏ hoe bị chấy cắn. Màu đỏ ấy chói mắt dưới nắng đông, như lỗ kim đôi khi lộ ra của sự thật.

Tôi không biện bạch. Chỉ xoay cho lỗ thủng trên giấy dán cửa sổ to thêm chút. Ánh sáng từ ngoài chiếu thẳng vào, rọi lên vân gỗ trên bàn, tựa dòng nước mảnh mai. Mọi thứ trong phòng nhờ ánh sáng này mà có đường viền: hộp sơn mài lạnh ngắt, lò than hồng rực, mực trên giấy, cúc ngọc láng bóng. Nhập dạ, có nho sinh mang bút vừa ráo mực đến tìm tôi. Vạt áo hắn dính vết mực, trong mắt ngùn ngụt lửa: "Nương tử có muốn biện giải?" Hắn lật ra cuộn giấy, hơi giấy còn ẩm, tỏa mùi keo da cá. "Tiểu sinh muốn viết lời biện hộ cho nương tử, nói thuyết 'Họa Thủy' vô lý, rằng..."

Tôi đẩy tờ giấy lại: "Hãy viết về cách dân chúng no bụng."

Hắn sửng sốt, chót tai đỏ lên như bị lửa đ/ốt. Hắn gập tờ giấy: "Nhưng thế gian muốn nghe chuyện."

"Vậy hãy viết một câu chuyện về no bụng." Tôi nói.

Khi hắn rời đi, gót giày hắn quệt trên đ/á phát ra âm thanh ngắn ngủi, tựa dấu chấm câu chưa tròn.

Nửa đêm, tôi bị đ/á/nh thức bởi tiếng tù và rất xa rất xa. Không phải thứ âm ngắn trong thành, mà dài hơn, vững hơn, như vạn kỵ cùng siết cương nơi đêm phương xa. Tôi mở mắt, căn phòng nửa tối nửa lửa. Tro trong lò sưởi trắng xóa từng lớp sụp xuống, tận đáy một chút hồng như sao ch/ôn trong cát. Tôi với tay đặt vài khúc củi khô lên, ngọn lửa bốc cao, mùi th/uốc trong phòng lại dậy.

Tôi cầm tờ khắc gỗ in hình tôi là "Họa" lên, soi trước lửa. Mặt sau tờ giấy lộ vân gỗ, trong vân còn vết d/ao, trong vết d/ao vương vụn bào hoa từng sợi. Đột nhiên tôi thấy nhẹ nhõm - không phải vì được tha, mà vì thấu hiểu cách vận hành của việc đổ lỗi: khởi đầu là sợ hãi, sợ hãi đẩy người ta tìm kẻ yếu thế nhất; tiếp đến là lười biếng, lười khiến người ta không muốn truy vấn; cuối cùng là lợi ích, lợi khiến người ta cần kẻ quỳ gối.

Tôi đặt tờ giấy lại bàn, để nó gần lửa hơn nhưng không cho ch/áy. Để nó nóng, để nó nhăn, để nó ghi nhớ vết lửa lướt qua lúc này.

Trước bình minh, ngoài cổng biệt viện dừng đôi kiệu ngựa. Người đến khẽ nói với kẻ giữ cổng, giọng như tuyết rơi ngọn trúc, nhẹ đến mức gần như không nghe thấy. Tôi nghe được hai chữ: "Nam hành." Người trong cổng hỏi lại: "Chuyến này vì việc gì?" Đáp: "Lánh danh."

Tôi nắm ch/ặt chiếc cúc ngọc. Nó lăn trong lòng bàn tay, phát ra tiếng va chạm rất khẽ, như trái tim tự trở về vị trí.

Trời sắp sáng, tiếng mõ gỗ trong chùa lại vang. Âm thanh áp vào xươ/ng tai tôi run run, như hỏi: Ngươi có muốn nói một câu, cho chính mình? Tôi kéo ch/ặt áo choàng, khẽ đáp với cửa sổ: "Ta không thu dọn mặt mũi cho họ."

Việc đổ lỗi có lẽ còn kéo dài. Bảng cáo thị còn dán, người kể chuyện còn gõ bàn, xưởng in còn quét mực đen. Nhưng ta biết chương tiếp nên viết gì: không phải danh tự họ lộng lẫy thế nào, mà là khi ta lật tấm gương, khuôn mặt họ từng cái một mất đi ánh hào quang.

Gó từ đông bắc lại quay về đông, mang theo chút muối mới. Tôi xoay lỗ thủng trên giấy dán cửa sổ to thêm chút nữa, để gió thổi thẳng qua phòng, dập tắt mấy chiếc đèn giấy cuối cùng - những chiếc đèn viết chữ "Họa".

**Chương 7: Lặng Lẽ Nhìn - Tam Đế Hóa Phàm**

Khi màn đêm lại đ/è xuống, mùa đông Bắc Kinh đã vào độ thẳm sâu. Mây thấp như lớp bông cũ, đ/è lên thành quách cùng chóp tháp. Lưỡi lửa chợ phố bị gió bẻ g/ãy, xa gần chỉ còn thưa thớt đôi mắt đèn, như ánh sáng lập lòe dưới biển sâu.

Tôi ngồi trước cửa sổ gỗ biệt viện, giấy dán cửa sớm đã bị tôi xoay thành lỗ lớn. Bên ngoài lỗ thủng trời màu trắng đục, tựa giếng nước chưa tỉnh, thỉnh thoảng có ngôi sao nổi lên rồi chìm xuống. Gió mang theo hơi muối và sắt, cũng đem theo tiếng ngựa hí tiếng người nói từ xa, âm thanh qua vô số tường thành đã trở nên mềm mại, như giấc mộng xa xôi.

Trong thành không còn cáo thị mới. Những tấm bảng viết đầy hai chữ "Họa Thủy" đã bị mưa tuyết cùng người qua đường mài thành tro bụi. Thỉnh thoảng có mảnh vỡ bị gió thổi lên, cuốn vào rãnh nước, xoáy trên mặt nước bẩn, như chiếc lá không nơi về.

Danh sách chương

4 chương
24/12/2025 16:47
0
26/12/2025 11:17
0
26/12/2025 11:15
0
26/12/2025 11:13
0

Có thể bạn quan tâm

Bình luận

Bình luận Facebook

Đăng nhập
Tài khoản của bạn bị hạn chế bình luận
Hủy
Xem thêm bình luận

Đọc tiếp

Đăng nhập để đồng bộ lịch sử trên nhiều thiết bị

Bảng xếp hạng

Top ngày

Mới cập nhật

Xem thêm

Hán Cung Cô Tử: Đồng Ngôn Kinh Triều Đường, Đoản Mệnh Thành Bi Ca

Chương 6

16 phút

Chiếm Hồn

Chương 7

17 phút

Hoàng Thái Hậu Chưa An Táng: Bí Ẩn Cấm Kỵ 37 Năm Trong Cung Đình Nhà Thanh

Chương 6

19 phút

Một câu nói của nàng đảo lộn cục diện trăm năm Đại Minh, khiến hoàng đế không lập hậu nữa

Chương 26

20 phút

Án Đạn Đỏ: Bi Kịch Ba Mươi Ngày Trên Ngai Vàng

Chương 6

22 phút

Đại Kế Của Hoàng Đế Yểu Mệnh: Từ Đan Phòng Đến Thiên Hạ

Chương 22

23 phút

Thiên Mệnh Không Chiếu: Một Chỉ Dụ Phế Hậu Trảm Tông Môn

Chương 9

29 phút

Hoàng Tộc Máu Tang: Truyền Thuyết Công Chúa Phẫn Nộ Phanh Thây Thị Nữ

Chương 6

31 phút
Bình luận
Báo chương xấu