Thuốc Phiến Và Khói Lửa: Lâm Tắc Từ Và Thời Đại Tan Rã Của Thiên Triều

「Đất Tây Vực tơi xốp, đào sâu năm trượng sẽ thấy mạch nước.」Lâm Tắc Từ thần sắc kiên nghị, 「Đây là phương pháp đào kênh ngầm của người Hán, ta muốn thử nghiệm lại.」

Kỳ tích kênh ngầm Khả Nhĩ

Mùa hè năm 1843, thung lũng Y Lê vang vọng tiếng cuốc xẻng. Hàng trăm tù nhân lưu đày dưới sự chỉ đạo của Lâm Tắc Từ, bắt đầu đào hệ thống kênh ngầm.

Công trình áp dụng phương pháp 「giếng nối kênh」: cứ cách 20 trượng đào một giếng thẳng đứng, rồi dùng kênh ngầm nối liền, giảm thiểu bốc hơi. Dưới ánh nắng gay gắt, mồ hôi hòa lẫn với bùn đất. Lâm Tắc Từ tự mình ngồi xổm bên miệng giếng, tính toán góc độ. Có người hoảng hốt khuyên can: 「Đại nhân quý thể, sao phải tự xuống giếng?」Hắn chỉ cười đáp: 「Ta là tội thần, chính tay chân này còn hữu dụng.」

Vài tháng sau, giữa sa mạc bỗng tuôn trào dòng suối trong vắt, chảy róc rá/ch theo kênh ngầm, tưới mát vùng đất nứt nẻ. Mùa thu năm ấy, vùng đất hoang vốn không mọc nổi ngọn cỏ, bất ngờ thu hoạch 7.000 thạch lúa mạch! Nông dân Duy Ngô Nhĩ ôm những hạt lúa vàng óng quỳ khóc: 「Đây là vụ mùa bội thu trăm năm chưa từng thấy!」Tư liệu lưu trữ của Phủ Tướng quân Y Lê chép rằng: 「Năm kênh đào hoàn thành, kho lẫm đầy ắp, dân chúng lạy tạ không dứt.」

Lời cảnh tỉnh từ tấm bia cổ

Một ngày nọ khi đào kênh, công nhân bất ngờ đào được tấm bia vỡ từ thời Đường, khắc mấy chữ 「Đồn điền của Đô hộ phủ An Tây」. Văn bia mờ nhạt nhưng vẫn lờ mờ nhận ra. Lâm Tắc Từ vuốt bia trầm ngâm hồi lâu, thì thầm với quan viên tùy tùng: 「Ngươi xem, người xưa đã biết nơi này thích hợp canh tác. Việc đồn điền là cần thiết.」Hắn sai người in dập văn bia, cất kỹ trong túi. Với hắn, đây không chỉ là chứng tích lịch sử, mà còn là lời nhắc nhở hậu thế: Giữ biên cương không chỉ dựa vào vũ lực, mà còn cần lương thực.

Cảnh giác với nước Nga

Đêm đông năm 1845, gió tuyết cuồn cuộn. Dưới ánh nến, Lâm Tắc Từ hoàn thành cuốn sách Kỷ yếu về nước Nga. Trong sách ghi chép tỉ mỉ động thái quân sự của Nga ở Trung Á, cùng lời cảnh báo: 「Người Nga thèm khát Tây Bắc ta, tất bắt đầu từ Y Lê. Trong vòng mười năm, chúng sẽ xâm phạm biên ải.」

Hắn còn vẽ bản đồ phía sau sách, đ/á/nh dấu những nơi dễ bị xâm lăng. Những đường nét dày đặc, nhưng nét bút loang lổ m/áu từ những ngón tay nứt nẻ vì giá rét. Tùy tùng muốn khuyên hắn nghỉ ngơi, hắn chỉ ngẩng đầu, ánh mắt rực lửa: 「Nguy cơ hải phòng, ai cũng thấy; nguy cơ biên phòng, chỉ có nơi này.」

Về sau sử sách chứng minh, lời tiên tri của hắn thành sự thật. Năm 1871, quân Nga chiếm đóng Y Lê, gần như lặp lại cục diện hắn từng vẽ trên giấy.

Hà qua ký trình: Bản đồ biên cương

Đêm trước khi rời Y Lê, Lâm Tắc Từ trao cho Bố Yến Thái cuốn sổ tay dày dặn mang tên Hà qua ký trình. Trong đó không chỉ có địa lý thủy văn, mà còn cả kế hoạch đồn điền cùng kiến nghị quân sự.

Ở trang cuối, hắn viết: 「Lợi thế Tây Vực nằm ở đồn điền; nguy cơ Tây Vực đến từ nước Nga. Đạo lý không nằm ở binh giáp, mà ở cày cấy dệt may.」Khi Bố Yến Thái tiếp nhận, phát hiện góc trang sách thấm màu m/áu sẫm - dấu vết từ những ngón tay nứt nẻ trong mùa đông khảo sát của Lâm Tắc Từ. Vệt m/áu ấy tựa hồ là hồi chuông cảnh tỉnh cho hậu thế.

Nhà tiên tri bị lưu đày

Ba năm lưu đày, hắn không chìm đắm vì mất hết quan chức. Ngược lại, hắn để lại cho Tây Vực kế hoạch dài lâu hơn cả triều đình.

Dân địa phương nhớ mãi vị 「tội thần」này: Không ngồi cao cao tại công đường ra lệnh, mà cùng họ đứng giữa gió cát đo đạc đất đai; không chỉ bàn chiếu chỉ, mà phân dòng nước kênh, bón phân cho ruộng lúa.

Với triều đình trung ương, hắn là con dê tế thần 「hại nước」; nhưng với Y Lê, hắn lại là hiền nhân mang đến mùa vàng bội thu.

Ghi chép lịch sử

Mùa đông năm 1845, chiếu chỉ triệu hồi ban xuống. Lâm Tắc Từ thu dọn hành lý đơn sơ, lần cuối đứng trên đồng tuyết Y Lê. Xa xa, kênh ngầm Khả Nhĩ vẫn chảy xiết, ruộng lúa vàng óng, ánh mắt hắn lưu luyến khôn ng/uôi.

「Chính sách biên phòng, mong hậu nhân đừng quên.」Hắn lẩm bẩm.

Ba năm lưu đày, bề ngoài là giáng chức, kỳ thực là sự thành toàn khác: Hắn viết vào trang giấy những nguy cơ triều đình suy tàn không nhìn thấy; hắn đích thân vun trồng vào lòng đất hi vọng người biên cương khó dám mơ tới.

Khi bóng hắn khuất sau con đường tuyết, dân Y Lê đứng lặng hồi lâu. Nhiều năm sau nhớ lại, người ta nói: 「Dù là tội thần, công lao của Lâm công vượt xa vô số đại thần trấn thủ.」

Chương 7: Mở mắt nhìn thế giới

— Tiên phong khai sáng hiện đại hóa (1839–1850)

Sách Tây trong phòng bí mật

Mùa đông năm 1839, ngọn nến trong phòng kín tại dinh thự Quảng Châu chập chờn. Trên bàn gỗ dày, chất đống những bản thảo kỳ lạ. Không phải kinh sử truyền thống, mà là tờ Tin tức M/a Cao được dịch với rủi ro cực lớn.

Những thông ngôn r/un r/ẩy chép lại văn bản ngoại quốc, mực chưa khô đã sợ hãi rụng rời — theo luật Đại Thanh, dịch sách man di có thể bị xử tử. Nhưng Lâm Tắc Từ không chỉ đọc duyệt hàng ngày, mà còn viết đầy chú giải trên lề Quảng Châu phủ chí:

「Nghị viện Anh Cát Lợi chia làm thượng viện và hạ viện, thuế khóa binh sự đều phải tranh luận.」

「Lính Ấn Độ mỗi tháng lương 7 rupee, vui lòng phục vụ.」

Những dòng chữ này, hắn không ghi cho riêng mình, mà thắp lên ngọn đèn cho hậu thế.

Sự ra đời của Tứ châu chí

Còn chấn động hơn nữa là bộ Tứ châu chí do hắn chủ trì biên dịch.

Trong sách ghi chép về nước Anh: 「Tàu hơi nước dùng sức hơi, ngày đêm đi ngàn dặm」, 「không đặt quân vương, bốn năm bầu tổng thống một lần」. Hắn còn sao chép hình vẽ máy hơi nước, chú thích 「Nếu dùng cho vận tải thủy, tiết kiệm gấp mười lần」. Mạc liêu Lương Đình Nam hồi tưởng, một đêm nọ hắn nhìn bức vẽ tàu hơi nước, ngón tay run nhẹ, thì thầm: 「Vật này nếu áp dụng cho vận Hà, đường lương thiên hạ sẽ không còn bị thiên tai kh/ống ch/ế.」Lời đến cổ họng lại hóa thành tiếng thở dài. Bởi hắn hiểu rõ, ý tưởng này với Đại Thanh hôm nay, tựa như lâu đài trên không.

Hoài bão phục chức

Năm 1845 kết thúc lưu đày, hắn được triệu hồi về nội địa, lần lượt nhậm chức Tuần phủ Thiểm Tây, Vân Quý. Đi đến đâu, hắn cũng mang theo mấy bản sao sách Tây.

Đêm thu năm 1848, dinh Tuần phủ Thiểm Tây mưa lâm thâm. Dưới ánh đèn, hắn viết thư cho thuộc hạ cũ, ngòi bút dừng lại ở bốn chữ 「Học kỹ thuật dài của man di」. Hắn đặt bút xuống, mở rương long n/ão — bên trong cất giữ cuộn bản vẽ ố vàng mà hắn bỏ 500 lượng bạc m/ua lại từ thương nhân Mỹ Oliphant: thiết kế chiến hạm Anh Cam Lực Trị.

Trên bản vẽ ghi chú tỉ mỉ: giáp sắt dày 7 tấc, trang bị 74 khẩu pháo, chân vịt xoắn ở đuôi tàu. Hắn nhìn hồi lâu, bỗng cao giọng gọi: 「Lấy bản thảo Hải quốc đồ chí cho ta!」

Trong bản thảo kẹp một tờ giấy riêng, vẽ ý tưởng cải tiến pháo: trong nòng pháo khắc đường xoắn rãnh.

Danh sách chương

4 chương
24/12/2025 17:05
0
27/12/2025 09:25
0
27/12/2025 09:23
0
27/12/2025 09:20
0

Có thể bạn quan tâm

Bình luận

Bình luận Facebook

Đăng nhập
Tài khoản của bạn bị hạn chế bình luận
Hủy
Xem thêm bình luận

Đọc tiếp

Đăng nhập để đồng bộ lịch sử trên nhiều thiết bị

Bảng xếp hạng

Top ngày

Mới cập nhật

Xem thêm

Cuộc đời về già đầy những hành động kỳ quặc của Càn Long: Bi kịch của Tấn Quý nhân Vào năm Càn Long thứ 31 (1766), khi hoàng đế đã bước sang tuổi 56, một sự kiện chấn động hậu cung đã xảy ra: Quý nhân Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị - vị phi tần cuối cùng được sủng ái trong đời Càn Long - chính thức bước vào Tử Cấm Thành. Từ đó về sau, hậu cung nhà Thanh không còn một cuộc "tuyển tú" nào nữa. Nhưng chính trong giai đoạn này, một bi kịch đau lòng đã xảy ra với Tấn Quý nhân - vị phi tần trẻ tuổi nhất của Càn Long. Khi nhập cung, nàng mới chỉ là thiếu nữ 13-14 xuân xanh, trong khi Càn Long đã ở tuổi 56. Đến khi Càn Long qua đời ở tuổi 89, nàng vẫn còn rất trẻ, nhưng phải sống trong cô độc suốt phần đời còn lại. Những năm cuối đời, Càn Long trở nên vô cùng kỳ quặc. Dù tuổi cao sức yếu, ngài vẫn không ngừng tuyển mỹ nữ vào cung. Tấn Quý nhân và Lục Quý nhân chính là nạn nhân của thói háo sắc tuổi già này. Cả hai đều nhập cung khi hoàng đế đã ngoài 70 tuổi - một độ tuổi được coi là "cổ lai hy" thời bấy giờ. Đặc biệt, Tấn Quý nhân còn gánh chịu nỗi đau tột cùng khi bị Càn Long "bỏ quên" ngay sau khi nhập cung. Sử sách ghi lại rằng trong suốt 10 năm làm phi tần, bà chưa một lần được sủng ái, thậm chí không được phong tước hiệu. Mãi đến khi Gia Khánh đăng cơ, bà mới được tấn phong làm "Tấn phi", nhưng đó chỉ là danh hiệu an ủi cho một cuộc đời lỡ dở. Bi kịch của Tấn Quý nhân phản ánh rõ nét sự tàn nhẫn của chế độ cung tần thời phong kiến. Những thiếu nữ xuân thì bị biến thành món đồ chơi cho dục vọng của bạo chúa già nua, để rồi phải sống kiếp "góa phụ khi còn trẻ" trong bốn bức tường lạnh lẽo của Tử Cấm Thành. Câu chuyện của nàng là lời tố cáo đanh thép nhất cho sự phi nhân tính của chế độ đa thê trong lịch sử phong kiến Trung Hoa.

Chương 6

9 phút

Thần Long Phong Vân: Võ Tắc Thiên cáo biệt vũ đài cùng sự phục hưng của Đại Đường

Chương 6

12 phút

Chu Nguyên Chương và thuật nhìn người: Không nhìn mặt mà bắt hình dong, một chiêu trị vạn người

Chương 6

13 phút

Nữ Thương Nhân Chợ Âm: Xe Bus Tuyến 13

Chương 10

16 phút

Tấm Lòng Son Soi Sáng Sử Xanh: Tiểu sử Văn Thiên Tường

Chương 6

20 phút

Nghịch Lãng Cô Thần: Trịnh Kinh Chi Hải Thượng Cô Chiến

Chương 6

21 phút

Quyết Chiến Huaihai: Cuộc Chạm Trán Định Mệnh Của 300.000 Đại Quân

Chương 6

22 phút

Xuyên Thủng Vạn Dặm: Trương Khiên Và Cuộc Khai Phá Con Đường Tơ Lụa

Chương 6

23 phút
Bình luận
Báo chương xấu