Thể loại
Đóng
123
@456
Đăng xuất
Lương thực đã cạn từ lâu, họ chỉ còn biết ăn rau dại qua ngày. Tiếng trẻ con khóc lóc vang lên không dứt, khiến Đỗ Phủ đ/au lòng như d/ao c/ắt.
Một hôm, chính hắn lên núi tìm rau dại. Đường núi cheo leo, gió lạnh tạt vào mặt, hắn ngã nhiều lần đến nỗi đầy tay m/áu. Cuối cùng đào được mấy củ rễ hoang, mang về nhà nấu canh chia cho lũ trẻ.
Vợ hắn nhìn gương mặt tiều tụy của chồng, mắt đỏ hoe: "Phu quân, ngài nên trân trọng thân thể mình."
Đỗ Phủ chỉ đắng cay cười: "Mạng sống của ta, từ lâu đã gắn liền với sinh linh thiên hạ."
VÀO THỤC DỰNG THẢO ĐƯỜNG
Năm Đại Lịch thứ nhất, Đỗ Phủ dạt về Thành Đô. Lúc này, thân hữu giúp đỡ, cùng hắn dựng một thảo đường bên bờ khe Hoán Hoa.
"Hoán Hoa khê thủy thủy tây đầu/ Chủ nhân vị bác lâm đường u."
Thảo đường cảnh trí thanh u, tứ phía trúc biếc vây quanh, khe nước róc rá/ch. Đây là lần đầu tiên sau bao năm lưu lạc, hắn có được một nơi an cư.
Hắn trồng trúc, trồng tùng, nuôi gà vịt, sống cuộc đời nửa nông dân nửa ẩn sĩ. Mỗi sớm mai, hắn thường mang bút ra đồng, giao du với láng giềng, hoặc ngồi một mình bên bờ nước ngắm bạch âu chao liệng.
Cuộc sống nơi đây tuy không giàu sang, nhưng có được nếp an nhàn. Hắn viết các bài "Bốc cư", "Khách chí"..., thơ văn toát lên sự bình yên và niềm vui hiếm hoi sau bao biến cố.
"Xá nam xá bắc giai xuân thủy/ Đãn kiến quân âu nhật nhật lai."
Những ngày tháng ấy, dường như giúp hắn tạm quên nỗi đ/au binh lửa.
TÌNH BẰNG HỮU VÀ SỰ NƯƠNG TỰA
Lúc này Nghiêm Vũ trấn thủ đất Thục, rất kính trọng Đỗ Phủ, thường giúp đỡ vật chất. Nhờ Nghiêm Vũ tiến cử, Đỗ Phủ còn được nhậm chức Kiểm hiệu Công bộ Viên ngoại lang. Tuy chỉ là hư hàm, nhưng khiến người đời gọi hắn là "Đỗ Công Bộ".
Nghiêm Vũ cũng thường mời hắn bàn việc, luận bàn quân chính. Đỗ Phủ bụng mang chí lớn, có kiến giải đ/ộc đáo về thời cuộc, dù không giữ chức vụ quan trọng vẫn thường đưa ra lời khuyên chí lý. Nghiêm Vũ hết sức tán thưởng.
Thế nhưng, Đỗ Phủ vẫn cảm thấy bất an. Hắn hiểu mình không phải là nhân tài mưu lược, thà vùi đầu vào thơ rư/ợu còn hơn bị trói buộc nơi công môn. Hắn khéo léo từ chức, trở về thảo đường.
MẤT CHỖ DỰA VÀ CUỘC PHIÊU BẠT MỚI
Tháng tư năm Quảng Đức thứ hai, Nghiêm Vũ đột ngột qu/a đ/ời. Đỗ Phủ bỗng chốc mất đi chỗ dựa. Không còn ai che chở, cuộc sống nơi thảo đường ngày một khó khăn.
Gió thu nổi lên, hắn lại lên đường phiêu bạt. Dắt díu gia quyến lang thang khắp Miên Châu, Tử Châu, Lãng Châu, sống nhờ nhà người.
Cuộc sống khốn khó, con cái thường xuyên nhịn đói. Đỗ Phủ viết: "Hậu lộc cố nhân thư đoạn tuyệt/ Hằng cơ trĩ tử sắc thê lương." Đó không phải là nói quá, mà là hiện thực tàn khốc.
Đêm mưa thu, mái nhà tranh bị gió mưa tàn phá, nước dột như trút. Vợ ôm con co ro trong góc tường, cả nhà lạnh cóng. Đỗ Phủ nhìn cảnh tan hoang trước mắt, lòng đ/au như c/ắt, bèn viết nên kiệt tác ngàn đời "Bài ca nhà tranh bị gió thu phá":
"Ước gì có ngàn vạn gian nhà rộng/ Che chở khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều vui tươi!"
Tiếng kêu ấy không chỉ cho riêng mình, mà còn vì muôn dân thiên hạ.
MỞ MÀN BI KỊCH NAM HÀNH
Về sau, hắn lại lưu lạc đến Gia Châu, Nhung Châu, Du Châu, rồi dạt về Trung Châu, Vân An. Cuối cùng vào năm Đại Lịch thứ nhất tới được Khuê Châu (nay là Phụng Tiết), tạm có chỗ nương thân.
Tại Khuê Châu, hắn được giao quản lý công điền Đông Đồn, đời sống tạm ổn định. Hắn miệt mài sáng tác, chỉ trong vòng hai năm ngắn ngủi đã viết hơn bốn trăm bài thơ, chiếm gần một phần ba toàn bộ tác phẩm để đời, đạt đến đỉnh cao nghệ thuật.
Thế nhưng, sự ổn định ngắn ngủi ấy rốt cuộc không thể kéo dài. Năm Đại Lịch thứ ba, lòng nhớ quê da diết, hắn xuống thuyền về đông, bắt đầu cuộc phiêu bạt dài lần cuối.
Con sông ấy chính là con đường trở về cuối cùng của cuộc đời hắn.
TÂM HỒN THI NHÂN
Từ khi từ quan, Đỗ Phủ dù mất đi quan lộc nhưng được tự do giải phóng tâm tư. Thơ hắn không còn bị triều đình trói buộc, mà thực sự xuất phát từ nỗi thống khổ của bá tánh.
Hắn từng nói với vợ trong đêm: "Ta tuy không quan chức, nhưng vẫn có thể lấy bút làm ki/ếm. Đời này không hối h/ận."
Vợ nhìn gương mặt tiều tụy của chồng, chỉ biết gật đầu rơi lệ. Nàng hiểu, người đàn ông này đã tự buộc mạng sống mình với sinh linh thiên hạ từ lâu.
Trong thời đại bão táp ấy, thơ ông chính là cuốn sử viết bằng m/áu và nước mắt.
Chương 6
Chương 9
Chương 11
Chương 19
Chương 5
Chương 6
Chương 6
Chương 6
Bình luận
Bình luận Facebook