Thể loại
Đóng
123
@456
Đăng xuất
Sau khi bình định các vùng xung quanh và ổn định tứ phương, Lý Thế Dân dồn sức chỉnh đốn triều chính. Thế lực của Tề Vương cùng Thái tử trước kia đã bị phân hóa và dung hợp, còn thái thượng hoàng Lý Uyên cùng các lão thần cũng được vỗ về an bài.
Lý Thế Dân sau khi đăng cơ không gặp thuận lợi ngay từ đầu. Năm Trinh Quán đầu tiên, Trung Nguyên liên tiếp hứng chịu thiên tai: hạn hán, lũ lụt, châu chấu, sương giá dồn dập ập đến. Bách trăm lầm than, còn bị các thế lực chư hầu nhòm ngó. Lý Thế Dân phải tính toán từng hạt lương quân, sống cảnh thắt lưng buộc bụng.
Đường triều lúc ấy còn đối mặt với di sản từ thời Vũ Đức. Lý Uyên kế thừa chế độ nhà Tùy vốn đã tồn tại nhiều bất cập - một trong những nguyên nhân khiến Tùy diệt vo/ng. Thế nhưng Lý Uyên không cải cách, vẫn cứ để cỗ xe cũ kỹ lăn bánh. Lý Thế Dân lên ngôi phải gánh vác cả đống phiền toái cha để lại.
Nếu là bậc đế vương tâm tính kém cỏi, hẳn đã nghi ngờ bản thân hoặc tự trách mình. Nhưng Lý Thế Dân từng trải qua hơn mười năm chinh chiến, lại dám phát động binh biến đoạt ngôi - khí phách ấy đủ để đương đầu với mọi áp lực. Nếu không, hắn đã gục ngã nơi chiến trường, đâu còn cơ hội làm chủ Thái Cực cung?
Sau khi ổn định ngai vàng, Lý Thế Dân bắt đầu tinh giản bộ máy quan lại. Phải nói Lý Uyên khi tại vị dùng người khá tùy hứng, chỉ căn cứ vào sở thích cá nhân mà không xét năng lực.
Điển hình như Bùi Tịch - bạn cũ của Lý Uyên. Trong trận Hà Đông chống Lưu Vũ Chu, hắn bỏ mặc đại quân chạy trốn. Thế mà Lý Uyên vẫn an ủi, tiếp tục giao trọng quyền, mặc cho sinh linh đồ thán. Việc này không phải cá biệt. Hứa Thế Tự khéo nịnh nọt được Lý Uyên sủng ái, phong làm thứ sử - quyết định đại sự quốc gia mà kh/inh suất như trò đùa! Quan lại bất tài khiến triều chính hỗn lo/ạn.
Nhiều thứ sử bất xứng càng khiến dân chúng khổ sở - họ là cha mẹ dân, nếu không đáng tin cậy thì dân biết nương tựa vào đâu?
Khi còn là Tần Vương, Lý Thế Dân đã âm thầm phê phán tình trạng này. Nhưng lúc ấy hắn phải dè chừng, đăng cơ xong mới dám đại đ/ao khoát phủ. Dưới sự chủ trì của Phòng Huyền Linh, quan lại đầu Đường bị c/ắt giảm chỉ còn bảy tám trăm người.
Ngoài ra, Lý Thế Dân còn giảm tước phong, đổi các quận vương được Lý Uyên phong tràn lan xuống làm huyện nam - giảm gánh nặng bổng lộc cho quốc khố. Nhưng những kẻ bị giảm tước không vui vẻ gì.
Hôm nọ Lý Thịnh dạo vườn hoa, gặp kẻ tìm đến Đại An cung cáo trạng với thái thượng hoàng. Hắn chỉ muốn cười - thật đúng là đồ ngốc! Trong lúc mọi người đang uất ức nhưng chẳng dám hé răng, kẻ này lại dám nhảy ra khiêu khích! Đúng là tự tìm đường ch*t. Liếc nhìn xong, hắn mặc kệ, tìm Diêm Lập Bản xem tiến độ bức họa "Táp Lộ Tử" mà Lý Thế Dân đặt vẽ.
Gần đây Lý Thịnh thường xuyên giám sát, thỉnh thoảng còn làm mẫu vì Diêm Lập Bản và họa sĩ chưa quen thuộc với ngựa yêu. Hắn chỉ nghe hoàng đế mô tả: "Lúc ấy Táp Lộ Tử giơ cao chân trước, ngẩng đầu hiên ngang!" "Chạy sáu ngày không ăn, nó nằm phịch gặm cỏ khô khiến trẫm đ/au lòng!" "Mỗi độ xuân về, nó thích ăn loại cỏ non lùn xíu, thần thái chuyên chú lắm, ngươi phải vẽ cho kỹ!"
Diêm Lập Bản khổ sở - chưa từng thấy tận mắt mà phải vẽ theo lời kể! Đành phải quan sát Lý Thịnh làm mẫu. Sau vài lần bị nhìn tr/ộm, Lý Thịnh chủ động đến viện họa giúp đỡ - tranh truyền thế hệ phải đẹp đẽ chứ!
Khi đã an bài xong việc vẽ ngựa, Lý Thế Dân cũng chỉnh đốn xong triều đình. Từ Thượng thư tỉnh Lý Tĩnh, Vũ Văn Sĩ Cập, Môn hạ tỉnh Vương Khuê, đến tả hữu bộc xạ Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối cùng lục bộ thượng thư - dần thay thế cựu thần Vũ Đức bằng cánh tay đắc lực từ thời Tần Vương.
Bên cạnh cải tổ quan lại, Lý Thế Dân đặc biệt quan tâm dân sinh. Tư tưởng trị quốc xuyên suốt của hắn là: "TĨNH". Giảm nhẹ lao dịch thuế khóa, để dân yên ổn làm ăn. Dân có ruộng cày, quốc gia mới có lương thực.
Sau nhiều năm chiến lo/ạn, nhân khẩu đầu Đường chỉ còn hơn 3 triệu hộ - bằng 1/3 thời Tùy thịnh. Con số này bao gồm cả dân chạy nạn từ Đột Quyết trở về. Dân số ít ỏi khiến Lý Thế Dân vô cùng ưu phiền.
Lý Thịnh gặp hắn đang sầu n/ão khi cùng Trưởng Tôn hoàng hậu đọc sách. Hoàng hậu sinh nở liên tiếp nên thể trạng suy yếu, mặc áo kép giữa xuân vẫn cảm hàn. Nhưng nàng vẫn thường đến An Hòa điện mang điểm tâm cho hoàng đế, tranh thủ tắm nắng trong hậu viện - nơi có xích đu bọc da chồn trắng, nằm lên là ấm áp toát mồ hôi.
Lý Thế Dân vừa đến, Lý Thịnh lui ra. Hai vợ chồng như có thần giao cách cảm - chỉ cần một cái nhíu mày, khóe môi chớm động, Trưởng Tôn hoàng hậu đã hiểu ý. Thỉnh thoảng họ nhìn nhau cười, khiến Lý Thịnh - kẻ đ/ộc thân mấy năm - cảm thấy bị cô lập, vội cáo lui.
Khi rời đi, hắn nghe Lý Thế Dân bàn việc an trí Hán dân chuộc về từ các bộ tộc. Lý Thịnh nghĩ đến nhân khẩu là muốn đi/ên lên: hoàng đế không chỉ đòi các nước lân bang trả dân, còn nhờ Trưởng Tôn hoàng hậu vận động mệnh phụ làm từ thiện - phát cháo, dựng lều, bỏ tiền để người về nước cảm nhận hơi ấm Trung Nguyên.
Ngoái nhìn lại - hai phượng hoàng đang trên xích đu, hoàng hậu ngồi bên bấm huyệt thái dương cho chồng. Lý Thịnh vẫy đuôi, quay đi từ chối "bát cơm chó" này.
Những năm qua, không ít ngựa cái được đưa đến phối giống cho hắn - dù là tuấn mã thần thái cũng vẫn chỉ là ngựa! Lý Thịnh kiên quyết cự tuyệt. Sau khi Đường - Thổ thông gia, Thổ Phiên còn dâng 1.500 tuấn mã cùng 80 ngựa cái đặc biệt để xin phối giống thần mã. Lý Thịnh gi/ật mình - đời sau lão mụ an mai mối cũng không quá mức thế! Nhưng dù bao nhiêu, hắn vẫn khước từ. Mỗi lần hai phượng dắt ngựa cái đến, hắn đều hùng hổ đuổi đi. Về sau họ đành bỏ cuộc.
Các thần tử Đường triều bĩu môi: Thổ Phiên mơ tưởng hão! Họ theo dõi Táp Lộ Tử từ thời Tần Vương mà còn chưa được hưởng chút bóng hơi, huống chi Tùng Tán Càn Bố?
Về vấn đề nhân khẩu, mấy hôm sau Lý Thịnh thấy Phòng Huyền Linh cùng Đỗ Như Hối soạn chiếu "Khuyến dân tảo hôn" - khuyến khích kết hôn sinh con, ban thưởng, đưa tăng nhân khẩu vào tiêu chí khảo hạch quan lại. Xem ra KPI đã có từ cổ đại.
Giữ người cũng quan trọng. Lý Thế Dân đặt chức y học bác sĩ các châu, chữa bệ/nh cho dân. Hắn cải cách chế độ kho lương nhà Tùy, lập "nghĩa thương" trữ lương phục vụ quốc gia, "thường bình thương" điều tiết giá gạo - mùa rẻ m/ua vào tránh "cốc tiện thương nông", mùa mất mùa b/án ra giá thấp ngăn "cốc quý thương dân".
Ngoài ra, hắn cho xây dựng nhiều công trình thủy lợi tưới tiêu đồng ruộng. Lo sợ quan lại sách nhiễu, thứ sử đều do hắn tự tay lựa chọn.
Lý Thế Dân không chỉ yêu cầu quan lại chăm chính, bản thân cũng cần mẫn xử lý chính vụ. Tất nhiên, tính hắn có phần phóng khoáng, đôi lúc muốn hưởng thụ nhưng biết nghe lời can gián:
- Muốn chế tạo đồ tinh xảo trang trí cung điện → bị quần thần m/ắng: "Bệ hạ phải cần kiệm!"
- Muốn lên Thái Sơn phong thiền → bị m/ắng: "Bệ hạ phải yêu sức dân!"
Triều Trinh Quán không thiếu bề tôi dám m/ắng vua. Quen bị can gián, về sau hắn tự biết kiềm chế. Có lần định xây cung điện mới vì bệ/nh khí hàn, nhưng tự nhủ hao tổn sức dân nên thôi. Quần thần thấy vua nhân đức thì mừng, nhưng lo ngại long thể nên dâng sớ xin xây các lầu. Cuối cùng hắn vẫn không xây.
Dưới sự cai trị ấy, Đại Đường phục hồi kinh tế. Chỉ mười năm, nhân khẩu tăng gần 20% - tốc độ vượt cả thời Văn Cảnh. Cuối thời Trinh Quán, biên cương yên ổn, trăm họ an cư, kinh tế phồn vinh, văn giáo hưng thịnh. Lý Thế Dân biến một đất nước "vừa thoát lo/ạn lạc lại gặp thiên tai" thành "Trinh Quán chi trị" huy hoàng.
Chương 9
Chương 27
Chương 13
Chương 6
Chương 13
Chương 13
Chương 22
Bình luận
Bình luận Facebook