【 Nền nông nghiệp Hoa Hạ bắt đầu từ thời Chiến Quốc, nhưng trước đó, ng/uồn gốc nông nghiệp lại được người Phi châu nhắc đến đầu tiên.】

Vừa dứt lời, một người da đen bóng loáng xuất hiện trước mắt người của các triều đại.

Dân chúng thời Đường kinh ngạc: "Đây là ai? Sao lại đen như vậy?"

Nhưng người Đường nhanh chóng nhận ra: "Hóa ra hậu thế gọi Côn Luân nô là người Phi châu?"

Trong lúc mọi người còn đang kinh ngạc, một câu hỏi vang lên: "Vì sao các ngươi không làm nông nghiệp?"

Người Phi châu đáp: "Có nhiều quả xoài để ăn như vậy, việc gì phải trồng trọt?

Trồng trọt cần mặt trời và mưa, chúng ta chỉ việc chờ cây chín rồi hái thôi."

"Tê ~ Không cần trồng trọt mà vẫn có thể sống?"

Thần tích đối thoại này khiến dân chúng thiên hạ vô cùng nóng lòng, cái gì mà chỉ việc chờ cây chín?

Họ cũng muốn thế!

Đáng tiếc, màn trời không đáp lời họ, mà bắt đầu giảng giải:

【 Thời kỳ nguyên thủy, nông nghiệp cũng vậy. Khí hậu bù đắp cho kỹ thuật còn non kém.

Quan trọng hơn, thức ăn chủ yếu của xã hội nguyên thủy là các loại củ quả sinh sôi vô tính.

Chúng ưa thích môi trường nóng ẩm, dễ dàng tìm thấy trong xã hội nguyên thủy. Nhờ chúng, loài người có thể chọn ra những loại cây khác biệt từ vô số thực vật: loại kết trái, loại mọc liên miên, loại dễ thu hoạch, rồi đem chúng trồng gần bộ tộc, tạp giao với cỏ dại, cuối cùng chọn ra hạt giống tốt nhất để gieo trồng.

Hoa Hạ là một trong những quốc gia thuần hóa động thực vật sớm nhất. Vạn năm trước, việc thuần hóa cây cốc ở phương bắc là khởi ng/uồn của cả Đông Nam Á.

Khoảng 9000-8000 năm trước, phương nam bắt đầu thuần hóa lúa. Các di chỉ như Giả Hồ (Hà Nam), Lương Chử, Khuất Gia Lĩnh, Hà Mỗ Độ chứng minh lưu vực sông Trường Giang chủ yếu trồng lúa nước.】

Lưu Khải nhìn món ăn quen thuộc, ngẩn người: "Ngồi xổm si?"

Thứ này dễ trồng nhưng khó bảo quản, lại không no bụng bằng lúa mạch, nên không được ưa chuộng.

Không ngờ "ngồi xổm si" từng là lương thực chủ lực.

Hắn xoa đầu Lưu Triệt, thầm nghĩ: "Thứ này vô dụng ở Hán, khó bảo quản nên không thích hợp mở rộng."

【 Phương thức trồng trọt sau thuần hóa rất thô sơ. Sau cơn mưa, người ta vung vãi hạt giống, để chúng tự mọc, hoàn toàn tự do.

Khi bộ lạc tụ tập định cư, giảm bớt săn b/ắn, chuyển sang hái lượm, để nuôi sống những người không làm nông, nông nghiệp xã hội nguyên thủy bắt đầu phát triển, tiến vào giai đoạn "tỷ cày".

"Tỷ cày" là khi tổ tiên xã hội nguyên thủy dùng nông cụ để làm nông.

Nông cụ ban đầu là "lỗi", hình dạng như chiếc bút lông dẹt, có thêm một thanh ngang giữa cán và đầu bút, giống chữ thập ngắn.

Cách làm: đ/ốt sạch cỏ trên đất, sau đó dùng "lỗi" chọc lỗ, liên tục chọc lên xuống, gọi là "lập tức thi hành gieo hạt".

Cách này rất lãng phí đất, phải cách năm mới trồng lại, đợi đất hồi phục thảm thực vật mới tiếp tục cày.

Cách này gọi là "bỏ hoang", hay còn gọi là đ/ốt rừng làm rẫy.】

Màn trời dừng lại, bổ sung: 【 Từ xã hội nguyên thủy đến Hạ Thương Chu đều dùng cách này. Ở vùng nhiệt đới Hoa Hạ, nó tồn tại đến trước giải phóng. Các tộc Cảnh Pha, Độc Long ở Vân Nam đều "liền tuổi ba, bốn thu, mà tích mà vứt bỏ, càng chọn mới giả".

Hoặc trực tiếp đ/ốt cây cỏ, gieo hạt vào tro, dù hạn hay úng đều có thu hoạch. Khi đất không còn trồng được nữa, họ lại đ/ốt một ngọn núi khác, lặp lại như vậy.

Họ giữ được cách này hơn hai nghìn năm vì vĩ độ của họ thuộc vùng á nhiệt đới, khí hậu giúp hạt giống nảy mầm. Thử ở phương bắc xem?

Chắc ch*t đói từ lâu rồi.】

Dận Chân nhíu mày, nhịn không được: "Vân Nam cống sơn ỷ lại vào khí hậu man hoang, không cày ruộng, chỉ đ/ốt rừng làm rẫy, đợi nông vật tự nhiên.

Trẫm phái quan viên khuyên can nhiều lần không nghe, đến cả nhà cửa cũng bỏ đi nơi khác, thật khó dạy bảo!"

Dân chúng thời Hoàng Đế chê bai, đ/ốt rừng trồng trọt thì thôi, giờ Đại Thanh có bao nhiêu nông cụ tốt mà không dùng, thật là... Hắn lắc đầu, không định ép họ cày cấy, yêu cầu với dân vùng biên của Đại Thanh rất đơn giản: đừng gây chuyện, đừng phản Thanh là được.

Còn những thứ khác... Muốn đ/ốt rừng làm rẫy thì cứ đ/ốt thôi.

【 Khí hậu nhiệt đới giúp xã hội nguyên thủy có thể dùng cách tiết kiệm sức nhất để có đủ lương thực nuôi sống bộ tộc.

Nhưng khí hậu Hoa Hạ không phải bất biến. Chứng minh địa lý khí hậu cho thấy lượng mưa giảm 100mm, nông khu phương bắc lùi về nam 100km.

Ngược lại, nhiệt độ trung bình tăng 1℃, vùng khí hậu trôi về bắc 200-00km.

Biến động khí hậu kéo theo sự thay đổi của nông sản. Khi khí hậu khiến thu hoạch không như ý, "tỷ cày" lại thăng cấp. Nông nghiệp nguyên thủy đến thời Lương Chử đã xuất hiện cuốc, tỷ, thạch cày. Thạch cày thời đó một ngày cày được 4 gánh ruộng, là một đột phá mang tính cách mạng.

Đến thời văn hóa Ngưỡng Thiều (thời đại đồ đ/á mới), nông cụ không chỉ có liềm đ/á, mà còn có đ/á mài và chày cối để xay xát ngũ cốc.】

Tô Thức và những người khác vội vàng: "Nhanh, ghi lại, nhiệt độ tăng, mưa giảm, từ ngữ của hậu thế."

Còn cách phán đoán nhiệt độ và lượng mưa, từ từ điều tra sau!

Trước cứ chép đã!

Tô Thức vung bút nhanh chóng, nhìn lên bàn, thầm nghĩ: "Sao càng nhớ càng nhiều thế này? Cảm giác câu nào của màn trời cũng quan trọng."

Ừm... Cảm giác này đời sau có câu khái quát: toàn kiến thức cần học thuộc!

【 Khi Đại Vũ chia Cửu Châu, ông chia thổ chất thành tốt nhất, thượng trung, trên dưới và trung thượng.

Trong đó, cao nguyên hoàng thổ là đất ba-dan, giàu dinh dưỡng nhất.

Vì vậy, sau khi nhà Hạ thành lập, trung tâm thiên hạ chủ yếu ở cao nguyên hoàng thổ thượng du Hoàng Hà, lấy trồng trọt làm chính, chăn nuôi, đ/á/nh cá và săn bắt làm phụ.

Sau nhà Thương, trung tâm nông nghiệp mở rộng ra bên ngoài, chủ yếu gồm: Hà Nam, nam bộ Sơn Tây, tây nam bộ Hà Nam, đông bộ Sơn Đông, tây bắc bộ An Huy, trung đông bộ Thiểm Tây.

Tây Chu mở rộng phạm vi nông nghiệp trên cơ sở nhà Thương, khai khẩn những vùng gai góc, đất của Hoài Di thời Thương.

Tức: khu vực Giang Hán (Hồ Bắc), khu vực Giang Hoài (An Huy), khu vực Kinh Vị (Cam Túc, Thiểm Tây).】

Tần Thủy Hoàng nhìn về phía tây khu Tây Chu, nơi từng là nội địa của Tây Chu. Sau khi Tần Tương công hộ tống Chu Bình Vương dời đô về phía đông, ông được phong làm liệt hầu, ban cho đất phía tây Kỳ Sơn.

Khi đó, Tần trải qua mấy đời cuối cùng cũng có thân phận, có địa bàn, có thể cắm rễ nhìn về phương đông.

Hắn chậm rãi đi đến trước bản đồ, vuốt ve đất phía tây Kỳ Sơn, thở ra một hơi: "Đại Tần tuyệt không thể hai đời mà mất!"

【 Thương Chu tổng kết biến đổi thiên văn, các nơi làm nông dựa vào "vật hậu học" để tham khảo:

Ví dụ, thời Tây Chu, quan nước Đàm dựa vào chim di trú để định thời vụ nông nghiệp. Khi chim én đến nước Đàm, báo hiệu đất trời hồi xuân, nông dân nên trồng trọt.

Khi thấy giun đất xuất hiện, rau đắng mọc dài là đầu tháng hạ, nên nuôi tằm, tụ súc trăm dược.

Khi nhạn đến, chim én về, sấm im tiếng là giữa thu, nên khuyên dân trồng mạch, tích trữ lương thực.】

Dân gian

Nông dân gãi đầu, không hiểu sao thần tích lại nhắc đến việc nhìn chim để định vụ mùa.

Xem thiên tượng, nhìn hoa điểu chẳng phải chuyện bình thường sao? Người già có kinh nghiệm nhìn thời tiết ngày lập xuân là có thể đoán được thu hoạch cả năm rồi.

Một ông lão mở miệng nói: "Lập xuân tinh một ngày, cả năm không mệt nhọc, lập xuân gió Tây Bắc, trong ruộng giá gạo quý."

Một đứa trẻ nghịch ngợm hỏi: "Thúc bá tổ gia gia, thần nói nông sự liên quan đến khí áp ôn đới, chứ không liên quan đến lập xuân."

Ông lão nổi gi/ận, m/ắng: "Lời đời đời truyền lại sao sai được?

Hơn nữa thần không nói à? Hai mươi bốn tiết khí không có lập xuân sao?"

Nói rồi ông chỉ vào đứa trẻ cảnh cáo: "Ngưu oa tử, đến ngày lập xuân mà mày dám phạm kiêng kị đi gánh nước, lấy tro, tao bảo bố mẹ mày đ/á/nh mày!"

Nghe đến bố mẹ, ngưu oa tử sợ hãi, không dám nói nữa, quay đầu nghe thần tích giảng.

【 Dùng "vật hậu học" chỉ đạo làm nông, dựa vào địa hình, dùng th/uốc lưu thông khí huyết để trồng trọt. Thương nhân chọn ra kê, lúa mạch, lúa, thục, gai để làm lương thực chủ yếu.

Đồng thời, trên cơ sở "lục súc" (ngựa, dê, bò, gà, chó, lợn) đầy đủ, thương nhân bắt đầu thuần dưỡng ngỗng, vịt để tăng thêm ng/uồn thịt.

Thịt nai ngon nhưng không phải dân thường nào cũng ăn được, nhưng họ có thể giữ một phần ruộng tư để trồng trọt, nuôi sống gia đình.

Nhắc một chút, dân thường thời Thương chỉ có qu/an h/ệ huyết thống với quý tộc Thương, nô lệ không nằm trong phạm vi dân thường.

Trong hệ thống nhà Thương, dân thường nộp một phần mười cống phú cho quốc gia, triều đình cung cấp kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến như canh tác, trừ cỏ, bồi đất, tưới tiêu.

Nông cụ cũng chuyển từ đ/á, gỗ sang đ/á là chính, đồng xanh là phụ, như xẻng, cuốc, cày, liềm đ/ao.】

Màn trời chiếu cảnh nông cụ gỗ đ/á, khiến người các triều đại kinh ngạc: "Mấy cái xẻng, liềm đ/ao này rá/ch thế kia mà hậu thế vẫn giữ?"

Còn không bằng liềm đ/ao, xẻng nhà hắn.

Hơn nữa... Thấy cách canh tác của thương nhân, dân chúng các triều đại rất đ/au lòng, trồng trọt sao có thể tùy tiện như vậy?

Các ngươi gieo hạt không mở luống à? Bón phân, trừ cỏ đâu? Không làm gì cả, khác gì Côn Luân nô làm việc?

Không biết trồng thì để người khác làm!

【 Khác với nhà Hạ, nhà Thương thực hiện "Hiệp Điền chế". Hiệp Điền là hình thức canh tác tập thể, giống nông dân Iraq thời cận đại: ba người sóng vai giẫm thuổng sắt xuống đất, rồi cùng nhau lật đất.

Đến cuối thời Thương, phương thức trồng trọt có tiến triển, hai người mỗi người cầm một cái tỷ, cùng nhau cày đất.

Cách này vẫn còn di tích ở khu vực Tây Tạng cận đại, có chút khác biệt là hai nam tử xới đất phía trước, phụ nữ xới đất vụn phía sau để tăng hiệu suất.】

Màn trời chiếu hình ảnh trồng trọt ở Tây Tạng, dừng lại bổ sung: 【 Cách trồng trọt này rất mệt, đặc biệt là phụ nữ xới đất vụn, ngồi nửa ngày xuống, eo dễ sinh bệ/nh.】

Vô số nông dân xót xa: "Đâu chỉ là dễ sinh bệ/nh?

Nông dân trên đời này ai mà không trồng trọt? Rõ ràng là đang khai hoang!"

Khai hoang rất khó, phải biến một mảnh đất thành ruộng tốt, không phải hai ba năm là được.

Khổ không đ/áng s/ợ, sợ nhất là ruộng vừa tốt đã bị chiếm.

Đối phương đông người thế mạnh, họ biết làm sao?

Khai hoang khổ cực một năm uổng phí!

【 Phương thức làm nông nghiệp vẫn phát triển, nhưng phát triển lớn nhất vẫn là kỹ thuật mương máng và tác dụng của phân chuồng.

Phân bón: Thương nhân thu thập các loại phân, chuẩn bị đủ trước tháng hai, để vào ủng trong ruộng, cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng.

Kỹ thuật mương máng: đào kênh mương ở nông thôn, lật bùn đất từ khe lên bờ ruộng, nhà Thương Chu coi bờ ruộng là biên giới để tính diện tích ruộng.

Ruộng có mương máng cũng có thể thoát nước, tưới tiêu, tăng hiệu suất nông nghiệp.

Kỹ thuật này mạnh nhất vào thời Tây Chu với chế độ tỉnh điền.】

Văn nhân nhìn lệ nóng doanh tròng, tỉnh điền là thượng sách của các triều đại, vừa bảo đảm triều đình thu thuế, vừa có lợi cho dân, nhưng thế đạo ngày nay họ không thể phục chu lễ.

Ước nguyện cuối cùng của Khổng Phu Tử không thể thực hiện!

【 Để tăng sản lượng, Tây Chu chia ruộng thành ba loại:

Truy ruộng: ruộng không còn dinh dưỡng, cần bồi bổ;

Mới ruộng: ruộng đã hồi phục dinh dưỡng, có thể trồng trọt;

Dư ruộng: ruộng trồng liên tục 3 năm, sắp thành truy ruộng;

Ngoài ra còn có ruộng tốt, không cần thôi cày vẫn có thể trồng trọt liên tục.】

Minh

Chu Lệ thấy chế độ tỉnh điền thì cười lạnh, cháu ông đầu óc choáng váng, còn muốn áp dụng đề nghị của Phương Hiếu Nhụ, khôi phục tỉnh điền.

Thật nực cười, kẻ dạy trẻ kia xưng "phục tỉnh điền, đi chu lễ" mới có thể ngăn khấu lo/ạn, còn gọi người phản đối là kẻ tục tĩu.

Đại Minh mà theo tỉnh điền, sợ không truyền đến đời thứ ba đã vo/ng.

Tỉnh điền tốt thật, sao các triều đại không dùng?

Phục tỉnh điền là giả, hưng tông tộc mới là thật, thiên hạ nghe Chu gia hay nghe tông tộc?

【 Thương dùng phân chuồng, Chu thì tổng kết ra cách bón phân theo từng loại đất.

Đất tơi xốp dùng phân hồ; đất đỏ cứng dùng phân trâu; đất đỏ nhạt dùng phân dê; đất nghĩa địa dùng phân nai; đầm lầy khô cằn dùng phân hươu; đất phèn dùng phân hoan; đất đen dùng phân lợn, phối hợp với m/a túy tử.

Đồng thời xây trạch chướng ở những nơi thích hợp, tức đ/ập nước, pha đường, dẫn nước tưới ruộng, dùng nước diệt cỏ. Cách diệt cỏ này được dùng nhiều ở nước Sở phương nam.

Đất Sở hoang vu, dùng nông nghiệp hỏa cày thủy nậu: đ/ốt cỏ rồi trồng lúa, cỏ dại và lúa cùng mọc, đợi cao bảy tám tấc thì tưới nước ngập cỏ, chỉ để lúa mọc.

Cách này cùng đ/ốt rừng làm rẫy là hai cách nguyên thủy, sản lượng không cao, chỉ đủ sống, nhưng khí hậu Giang Nam nóng bức, giống loài phong phú, không lo không có cái ăn.

Sử sách chép: "Vừa không đông lạnh đói người, cũng không thiên kim nhà."】

【 Xã hội nguyên thủy dùng đ/á là chính, Thương dùng đồng xanh là phụ, thời Tây Chu thì bắt đầu có nông cụ bằng sắt. Nông cụ truyền thống Hoa Hạ cũng có hình thức ban đầu:

Nông cụ làm đất: lỗi, tỷ, xẻng, ưu (công cụ làm đất vụn), tráp, cuốc, cày;

Nông cụ trung canh: tiền, chiêng;

Trung canh chỉ thao tác tỉ mỉ: tưới ruộng, bón phân, trừ cỏ. Tiền, chiêng có hình dạng xẻng nhỏ, dùng để nông dân cẩn thận trừ cỏ, xới đất;

Nông cụ thu hoạch: trất (c/ắt bông lúa), ngải (giống liềm đ/ao), đẩy liềm (liềm hình chữ V);

Nông cụ tuốt hạt, gia công: vụt, chày cối, cối xay đ/á.】

Bách tính Tây Hán nhìn tiền chiêng trên màn trời, sắc mặt kỳ lạ, thần tích gọi cuốc lục giác là tiền chiêng?

Cuốc lục giác dùng để xới đất, trừ cỏ rất tiện, lại không hại lúa. Nhưng cuốc lục giác của họ và tiền chiêng trên trời có chút khác, trên trời có hai sừng, còn của họ là lục giác.

Nghe thần tích, chẳng lẽ hậu thế không dùng tiền chiêng?

【 Tóm lại, ba triều Hạ Thương Chu ở lưu vực sông Trường Giang lấy lúa nước làm chính, lưu vực Hoàng Hà lấy kê và lúa mạch làm chính, lúa và thục thứ hai.

Địa lý khí hậu khác nhau tạo ra phong cách ẩm thực khác nhau. Từ khi xã hội nguyên thủy thuần hóa kê và lúa, đến thời Tây Chu, Hoa Hạ có 21 loại cây lương thực.

Trong các loại lương thực phong phú, chỉ có ngũ cốc được coi trọng.

Sử sách chép "Ngũ cốc quen mà dục dân", không phải cố định năm loại, mà là dựa vào nhu cầu và biến đổi khí hậu.

Thời kỳ đồ đ/á mới, kê đứng đầu, "xã tắc" trở thành biểu tượng quốc gia.

Từ Tây Chu đến Xuân Thu, lưu vực Hoàng Hà lấy kê và lúa mạch làm chính. Sau khi nông cụ cải tiến, thời Chiến Quốc lại lấy lương thực làm chính.

Đến Tây Hán thì lấy mạch, lúa, kê, thục, lương làm ngũ cốc, ngày nay ngũ cốc chỉ chung: kê, lúa, mạch, thục.】

Nhìn màn trời chiếu Kinh Thi, trong đó các chữ lúa, tư, mạch được đ/á/nh dấu, khiến người các triều đại kỳ lạ, hậu nhân từ thơ suy ra khí hậu, còn thống kê số lượng thu hoạch từ Kinh Thi?

Hậu thế thật là... Cần bao nhiêu tiền của mới có thể điều tra tỉ mỉ như vậy?

Nhưng nghĩ đến hậu thế đều vượt quá giới hạn, tốn chút công sức điều tra cổ tình cũng không khó.

【 Thời Xuân Thu, chế độ nô lệ sụp đổ, chế độ tỉnh điền suy tàn, các chư hầu cần ruộng tư để tăng quốc lực, thế là đồ sắt và trâu cày thành công kết hợp, khiến đất đai không ngừng được khai phá.

Vùng đất phì nhiêu có thể thu hoạch bốn năm, đến thời Chiến Quốc, vùng Sơn Đông có thể thu hoạch hai vụ một năm, còn bây giờ chúng ta ba năm mới thu hoạch hai vụ, không bằng thời Xuân Thu Chiến Quốc.

Có lương thực thì có thể vũ trang quân đội, có sú/ng cột thì có thể dòm ngó thiên hạ. Để tích lũy thêm tư bản, các quốc gia bắt đầu cải cách thuế má.

Tề quốc: xem tướng đất mà thu thuế; Lỗ quốc: sơ thuế mẫu; Trịnh quốc: làm đồi thuế má và dùng thuế ruộng; Tần quốc sơ thuê lúa.

Đến thời Chiến Quốc, cày sâu cuốc bẫm mở ra, một trong những nguyên nhân là sự xuất hiện của nông gia trong chư tử Bách gia.】

Không đợi các triều đại phản ứng, màn trời nói thẳng: 【 Nông gia xuất thân từ nông tắc chi quan, họ là những người làm nông học chuyên nghiệp từ quan phương chuyển sang dân gian. Nông gia khuyên cày tang, truyền bá trăm cốc, để đủ áo cơm. Họ dạy dân làm ruộng, muốn quân thần cùng cày, để quân thuận lòng dân, yêu dân.

Họ phản đối bóc l/ột, áp bức chính trị, tố cầu tự nhiên trái ngược với vương triều, nên nông gia sáng tác thất truyền trong dòng sông lịch sử, chỉ còn lấm ta lấm tấm học thuyết trong chư tử.】

Nông dân túm lấy người biết chữ hỏi: "Bây giờ còn nông gia không?"

Người có học thức bị tập kích bất ngờ, tức gi/ận tránh ra: "Không có, hiện nay chỉ có Nho gia, không có chư tử Bách gia!"

Thực tế, hắn cũng chỉ biết sau khi thần tích buông xuống: hóa ra thời Xuân Thu Chiến Quốc có chư tử Bách gia, học sinh có thể theo đuổi các học thuyết khác nhau.

Chứ không nhất thiết phải học Tứ thư Ngũ kinh.

【 Để tăng độ phì của đất, thời Chiến Quốc đã phân loại đất, như: Ký Châu (tây bộ Hà Bắc, bắc bộ Sơn Tây và Hà Nam) là trắng nhưỡng, Duyện Châu là đen m/ộ phần, Thanh Châu là trắng m/ộ phần, Ung Châu là đất ba-dan.

Trong những loại đất này, lại chia làm ba đẳng chín cấp, trong đó đất ba-dan Ung Châu là thượng đẳng, Từ Châu là thượng đẳng, Thanh Châu là thứ đẳng, đều hơn gai, dương hai châu.

Sau khi phân loại đất, lại dùng phân bón làm dinh dưỡng, vì vậy nông nghiệp xây dựng sân khấu tranh bá cho Chiến Quốc.】

Màn trời thở dài: 【 Từ khi chư tử Bách gia xuất hiện thời Chiến Quốc, các đời không còn thời đại nào tinh quang thôi xán như vậy.

Hết thảy học vấn đều bị hoàng quyền bao phủ, hết thảy kỹ nghệ đều phục vụ quý tộc. Nếu nông nghiệp không phải căn cơ của các triều đại, có lẽ sự phát triển của nông nghiệp cũng trì trệ.

Ngay cả như vậy, nông nghiệp cũng không thể đơn đ/ộc trở thành một môn học, chỉ là kinh nghiệm tích lũy chậm chạp đột phá.】

Nông dân các triều đại nước mắt lưng tròng, nếu có học thuyết đại diện cho họ thì tốt biết bao?

Ít nhất có thể hô lên tiếng nói của họ!

【 Vì nước giàu binh mạnh, các quốc gia thời Chiến Quốc đều lấy "nông chiến" làm cốt lõi, thúc đẩy nông chiến mà phong quan tước, tức: năng lực tác chiến mạnh thì làm quan, làm nông giỏi cũng có thể làm quan.

Ngụy quốc Lý Khôi biến pháp tận độ phì của đất chi giáo: cổ vũ nông dân chăm chỉ, đề xướng "thu m/ua lương thực pháp" để giữ giá lương thực ổn định, bảo đảm lợi ích nông dân, để làm ruộng có lợi.

Sở quốc Ngô Khởi dời quý tộc ra biên giới, khai khẩn đất hoang, vừa cày vừa chiến, không để quốc gia có kẻ ăn không ngồi rồi.

Tần quốc Thương Ưởng biến pháp trực tiếp thúc đẩy ra hổ lang chi sư, không lập công trên chiến trường thì thôi, đến đây mà trồng ruộng, chỉ cần trồng tốt thì cũng được làm quan, phong tước!】

Bách tính các triều đại: "Oa, chúng ta ở Chiến Quốc cũng có thể làm quan?"

Lập tức cười khổ: triều đình không đòi thêm thuế đã là ngày lành rồi, làm quan?

Họ không dám nghĩ.

【 Hoàn cảnh lớn thời Chiến Quốc khiến ruộng công phân giải thành ruộng tư lớn nhỏ. Chính là chư quốc tranh bá, trực tiếp định xã hội thành: kinh tế nông nghiệp cá thể.

Tức: lấy trồng trọt làm chủ, chăn nuôi làm phụ, gia đình kinh tế.】

Lưu Bang quay đầu nhìn Trần Bình: "Có phải ngươi nhớ nhà ngươi ban sơ có 30 mẫu ruộng?"

Trần Bình vội thu hồi ánh mắt, đáp: "Đúng vậy, trước đây trong nhà chỉ có thần và ca ca, 30 mẫu đất còn không đủ nuôi gia đình."

Lưu Bang gật đầu: "Ba mươi mẫu đất không đủ hai người ăn, nhà năm người trồng trăm mẫu, tiêu hao trăm mẫu, chỉ còn trăm mẫu nộp thuế và ăn cho năm sau."

Nhưng đó chỉ là hy vọng, lương thực tốt x/ấu còn tùy thuộc vào trời, triều đình quan liêu, thường chỉ có thể bớt ăn mới sống qua ngày.

Hắn không mong Hán gia ai cũng làm nông, chỉ mong triều đình hết sức nâng đỡ nông nghiệp, đã là Đế Vương Thánh Đức.

Đáng tiếc... Hắn không còn thời gian, chỉ có thể trông mong vào con cháu.

【 Nhà năm người là cách gọi gia đình nông dân thời Chiến Quốc Tần Hán, gồm ông bà, con trai con dâu, cháu trai (hoặc cháu gái), hoặc ông bà ngoại, vợ chồng, con cái.

Nho gia, Pháp gia thời cổ chia cho nhà năm người trăm mẫu ruộng.

Nho gia miêu tả lý tưởng là: nhà năm mẫu, trồng dâu, năm mươi tuổi có lụa mặc, nuôi gà lợn chó, bảy mươi tuổi có thịt ăn.

Nhà có trăm mẫu ruộng thì tám miệng ăn không lo đói.

Pháp gia thì: một chồng mang năm miệng, trị ruộng trăm mẫu, một năm thu một thạch rưỡi, hợp thu 150 thạch, dùng để nuôi gia đình.】

Một đứa trẻ nghi ngờ gãi đầu: "Ông nội ta năm nay sáu mươi đã rụng răng, không ăn được thịt, bảy mươi sao ăn thịt?"

Thần tích nói lạ thật, năm mươi tuổi mới mặc áo, vậy người lớn chẳng phải trần truồng chạy khắp nơi như nó sao?

Đứa trẻ buồn rầu: "Người Chiến Quốc khổ quá."

Màn trời nghi hoặc: 【 Thời Xuân Thu, nhà trên nông miễn cưỡng đủ sống, trung nông bốn khẩu ăn năm, hạ nông ba khẩu ăn năm, nên nông dân thường ăn cẩu heo.

Vậy Chiến Quốc thì sao?

Khó đoán lắm, từ Chiến Quốc, dân Hoa phân bố cực kỳ không đều, nhân khẩu tập trung ở trung hạ du Hoàng Hà, Giang Nam Tây Bắc thì hoang vắng.

Tình trạng này kéo dài đến Tần triều, hơn 40 triệu người tập trung ở đó, chiếm 70% cả nước.

Đây là con số kinh khủng, một khi vượt qua giới hạn sinh thái, dị/ch bệ/nh, lũ lụt, hạn hán sẽ liên tiếp xảy ra. Bằng chứng rõ nhất là dòng sông vốn gọi là sông, vì nước sông đục ngầu, một thạch nước sáu đấu bùn, bị đổi tên thành "Hoàng Hà".

Vì vậy, Tần Thủy Hoàng liên tục dời dân đến Ngô Việt, Ba Thục, đ/á/nh bại Hung Nô rồi liên tục phong phú du bên trong phía Đông, phía bắc Hoàng Hà, để dân đóng quân khai hoang định cư, cuối cùng dời khoảng 200 vạn người.

Nếu không dời, Hoàng Hà tràn lan có lẽ đã sớm xảy ra mấy trăm năm.

Đến thời Hán Vũ Đế cũng thực hiện chính sách nhập cư, trấn thủ biên cương, liên tục dời dân đến Thiểm Bắc, Ninh Hạ, đến thời Hán Bình Đế, số dân ở núi nhanh hạp và kính trên nước đạt 240 vạn.】

【 Nhân khẩu đông đúc, lại không có nghề nghiệp khác, nông dân chỉ có thể thâm canh dịch nậu, nghiên c/ứu làm sao tăng sản lượng trong đất hạn hẹp.

Để tăng sản lượng, nông dân thậm chí bỏ trâu cày, dùng tỷ, nậu thủ công.

Tức: một mẫu chia thành bàn cờ 1 thước 5 tấc, mỗi ô đào sâu 6 tấc, cách nhau 9 tấc, một mẫu có 1840 ô, mỗi ô gieo 20 hạt, thêm 1 thăng phân.

Đến mùa thu, mỗi ô thu được 3 thăng, một mẫu ruộng đạt trăm hộc lương thực.

Lúc đó có trâu cày không? Có, nhưng trâu cày không chính x/á/c bằng nhân công, hơn nữa với gia đình nghèo khó, chọn nhân lực có thể tiết kiệm chi phí. Chỉ cần đủ b/éo, chăm chỉ đ/âm, thì có thể thu được nhiều lương thực nhất trên diện tích nhỏ, đó là ưu thế và cũng là thế yếu của trung nông.】

Màn trời than nhẹ: 【 Thời xưa nhân lực không đáng tiền, đến giờ nhân lực có đáng tiền không?

Thời xưa chi phí lao động gần như bằng không. Để có sản lượng lớn nhất, người ta đầu tư vào cách trồng trọt dày đặc nhất trên mảnh đất nhỏ, đó là ng/uồn gốc chủ yếu của kinh tế nông nghiệp cá thể.】

Tần Thủy Hoàng trong mắt lóe lên một tia kiêu ngạo, Đại Tần ta từ trước đến nay coi trọng nông nghiệp, chỉ riêng nông quan đã có cánh đồng, ruộng điển, ruộng sắc phu, ruộng tá, mười mấy loại chức quan.

Để súc Điền Lực, Tần có nhiều trâu nhất trong các nước, dùng trâu cày ruộng hơn hẳn các nước khác.

Triệu báo cho rằng Triệu không thể địch lại Tần, cũng vì trâu cày tích cốc, ngưu ruộng vô số.

Đại Tần ta chính là nuôi dưỡng lập nghiệp.

【 Vì cả nhà tập trung phục dịch ruộng đồng, nông cụ thời Chiến Quốc Tần Hán còn nhiều hơn cả cận đại.

Như: lưỡi cày sắt dùng để lật đất, mặt hình b/án nguyệt dùng để đào đất, xới đất, ba răng hình dùi dùng để khai hoang, hai răng ngang dùng để trừ đ/á vụn.

Liền cày ruộng cũng có hình chữ V, hình chữ U, hình ngói, hình thoi, hình yên ngựa, dùng cho các loại địa hình khác nhau.】

【 Sau khi Tần Thủy Hoàng nhất thống sáu nước, ông phổ biến "nông trừ cuối cùng", biến đại bộ phận nô lệ thành nông dân, muốn bá tính giàu có, thực hiện chính sách từ thực ruộng, tức thừa nhận quyền sở hữu tư nhân của bá tính đối với đất đai, quốc gia bảo vệ, không còn thuộc về triều đình, tiếc là các quyền quý không muốn, khiến chính sách này ch*t yểu.】

Phòng Huyền Linh nghĩ ngợi, bổ sung: 【 Tần coi trọng nông nghiệp, nuôi bò rất phát đạt, thậm chí xỏ mũi bò để dễ canh tác.

Nhưng không biết vì sao thuật xỏ mũi không được mở rộng, sử sách chỉ ghi vài câu rồi lướt qua.】

Dân chúng Tần triều nghi hoặc: "Xỏ mũi bò? Chúng ta có không?"

Tam lão chần chờ: Nghe thần tích, xỏ mũi bò để kh/ống ch/ế bò?

Vậy họ... Lời còn lại ông không nói, bò là tài sản lớn trong nhà, ai cũng hầu hạ cẩn thận, sợ hỏng thân thể nó, không cày được.

Nếu muốn thử xỏ mũi bò, nhà ai ra bò? Ai chịu được rủi ro bò ch*t?

【 Thời Tây Hán, nông cụ lại thăng cấp, như ưu thời Chiến Quốc, Tây Hán có súc vật kéo, chuyên dùng để làm đất vụn.】

Nhìn nông phu dắt trâu kéo khí cụ hình mộc dài trên màn trời, Giả Thức sửng sốt, đây không phải cức sách sao? Dùng để cày ruộng trước vụ xuân, làm đất cứng xốp để dễ gieo hạt.

【 Hơn nữa nông nghiệp địa lý bắt đầu hoàn chỉnh, như tưới tiêu thì giếng cạn dùng cùng cần múc nước, giếng sâu dùng ròng rọc kéo nước, sông dùng lật xe.

Tuốt hạt dùng gông, xay lúa dùng cối xay, sàng sẩy dùng dương phiến, ngh/iền n/át lương thực dùng mài, ép.

Cuối đời Hán Vũ Đế đưa ra "Ngày nay chi vụ, ở chỗ lực nông", muốn hưng nông, mặc Triệu Quá làm sưu túc Đô úy, phổ biến dùng sức thiếu được cốc nhiều đại ruộng pháp.

Ông còn phát minh máy gieo hạt.

Máy này có thể mở luống, gieo hạt, bao phủ, hoàn thành trình tự nông nghiệp một lần, tiết kiệm thời gian và nhân lực.

Cho hạt giống vào đấu của máy, dùng trâu kéo, một người dắt trâu, một người đỡ máy.

Nhưng ông học theo Nhị Ngưu 3 người chịu pháp, một người dắt hai trâu, một người đỡ, một người đ/è để giữ độ sâu.

Cách này quá lãng phí nhân lực, không hợp với kinh tế nông nghiệp cá thể.

Nhưng không phải là không dùng được, dân mạng cũng làm ruộng, một người kéo lạc đà, hai người đẩy cày, sau đó thấy lạc đà không được thì đổi thành hai trâu hai người canh tác.

Phương pháp của ông cũng là Nhị Ngưu 3 người tiến bộ thêm giảm.】

Nhìn lạc đà khó khăn đi lại trong ruộng trên màn trời, Giả Thức (nhà nông học Tây Hán, tác giả "Giả Thức chi thư") đột nhiên nghĩ đến "cưỡi ngựa gieo hạt".

Lão Tử từng nói: Thiên hạ có đạo, lại cưỡi ngựa phân!

Khi chính trị thanh minh, chiến mã không cần ra trận, có thể dùng để gieo hạt, vừa cày, ngựa vừa thải phân và nước tiểu, vừa vặn bón ruộng.

Nhưng... Ngựa gieo hạt còn không bằng nhân lực.

Lạc đà vốn là vật của ruộng cạn, chân dài hơn ngựa, càng khó cày. Hậu thế vì nước khác làm nông mà hao tâm tổn trí.

Màn trời lên giọng: 【 Quan trọng hơn, thời Lưỡng Hán là thời kỳ dị vật từ khắp nơi đổ về. Kỹ thuật nông nghiệp Trung Nguyên truyền ra ngoài, lừa, lạc đà, con la theo vào. Quan trọng nhất là Trương Khiên mang về đào, đậu tằm, vừng, nho, lựu, rau thơm, cà rốt, dưa chuột, tỏi, vẫn là món ăn thường ngày.

Cảm tạ Trương Khiên tay trộn lẫn lễ!】

Danh sách chương

5 chương
22/10/2025 14:44
0
22/10/2025 14:44
0
03/12/2025 18:58
0
03/12/2025 18:57
0
03/12/2025 18:56
0

Có thể bạn quan tâm

Bình luận

Bình luận Facebook

Đăng nhập
Tài khoản của bạn bị hạn chế bình luận
Hủy
Xem thêm bình luận
Bình luận
Báo chương xấu