Thể loại
Đóng
123
@456
Đăng xuất
Trong "Vĩnh Mỗ Thị Chi Thử", Liễu Tông Nguyên kể một câu chuyện rằng, ở Vĩnh Châu nọ, dân chúng vì sợ ngày mà yêu chuột, không cho phép người hầu nuôi mèo chó, dẫn đến chuột thành tai họa. Sau khi dời đi, nhà mới ra sức diệt chuột như đổ đống.
Bài văn này châm biếm những kẻ tự cho là "ăn no mà không lo", những tên quan lại phong kiến hống hách, cùng đám chuột nhắt được kẻ quyền thế nuôi dưỡng. Những kẻ xa quân tử, gần tiểu nhân ng/u ngốc kia dùng người không khách quan, cung cấp địa vị và đặc quyền cho chuột, khiến chúng tùy ý làm bậy, chỉ mong ki/ếm lợi, cưỡng đoạt, hại nước hại dân!
Ban ngày, chúng tiền hô hậu ủng, nghênh ngang khắp nơi. Ban đêm, chúng "tr/ộm cắn đấu bạo", quấy rối bách tính, hang chuột chứa đầy tài vật, không nơi nào không phải "mồ hôi nước mắt của dân". Nhưng vì có chủ nhân che chở, chúng ung dung ngoài vòng pháp luật, Vĩnh Châu và lũ chuột chẳng khác nào cá mè một lứa!
Dẫu vậy, giọng điệu của tác giả vẫn tích cực. Tiểu nhân đắc chí có thể phách lối nhất thời, nhưng không thể lâu dài, bởi vậy mới có kẻ đến sau tiêu diệt chuột, trả lại sự thanh minh cho thiên hạ!
Đỗ Phủ tán rằng: "Vài nét bút sơ sài, đã phác họa nên hình tượng tham quan muôn đời không đổi, hình dạng có thể thấy, âm thanh có thể nghe, thực là đại tài!"
Lý Bạch thì hừ lạnh: "Người chuột cộng sinh, chướng khí m/ù mịt."
Hàn Dũ nhận xét: "Lấy nhỏ nói lớn, ý vị sâu xa......"
Bạch Cư Dị cho rằng: "Giá trị lớn nhất của ngụ ngôn là khiến người bình thường cũng hiểu được."
...
Ba thiên văn chương này không biết đã đ/âm trúng bao nhiêu yết hầu của kẻ quyền thế, khiến đại quan trong triều c/ăm h/ận Liễu Tông Nguyên đến tận xươ/ng tủy, h/ận không thể thủ tiêu hắn!
Nhưng Liễu Tông Nguyên đã bị biếm đến tận cùng, không tham dự chính trị, cũng không thể phạm sai lầm, khiến chúng nhất thời không có chỗ xuống tay......
Ngoài ngụ ngôn, Liễu Tông Nguyên còn có một số bài văn xuôi phản ánh thực tế, tỉ như "Bắt Rắn" được chọn làm bài thi ngữ văn ở trường trung học.
Vào thời nhà Đường, Tể tướng Dương Viêm chủ trì cải cách "Lưỡng Thuế Pháp". Nhưng chính sự suy đồi, cải cách không thể duy trì.
Triều đình và phiên trấn vì tăng cường thế lực, ngoài "Thu Lưỡng Thuế", còn thêm đủ loại thuế má hà khắc. Nặng nhọc sưu cao thuế nặng khiến dân chúng lầm than, gặp thêm thiên tai, chẳng khác nào chó cắn áo rá/ch. Bách tính sống không nổi nhao nhao đào vo/ng, lang thang, thiên hạ mười phần thì hết bảy tám phần......
Trong "Bắt Rắn", tác giả miêu tả một loài rắn đ/ộc, chạm vào cỏ cây sẽ khiến chúng khô héo mà ch*t, người bị cắn thì không th/uốc chữa. Nhưng loài rắn này có công dụng đặc biệt, làm th/uốc dẫn chữa được nhiều bệ/nh nan y.
Vì vậy, triều đình định kỳ thu thập rắn này để thay thế thuế má. Bách tính Vĩnh Châu tranh nhau bắt rắn để giảm bớt gánh nặng thuế má.
Tác giả thông qua câu chuyện của Tưởng thị, một người bắt rắn, đã viết nên cuộc sống khổ cực của bách tính dưới chính sách hà khắc. Tổ tiên và cha chú của Tưởng thị đều ch*t vì bắt rắn, nhưng vì sinh tồn, Tưởng thị vẫn phải tiếp tục nghề nguy hiểm này.
Độc rắn tuy mạnh, nhưng còn có thể tránh né; còn đ/ộc của phú liễm thì không nơi nào không có, tránh cũng không được. Tổ tiên Tưởng thị mười người không còn một, cha chú chỉ còn hai ba phần mười, đời hắn cũng chỉ còn một nửa nhân khẩu, Tưởng thị nhờ bắt rắn mới có thể sống sót.
Cuối bài, tác giả cảm thán: "Khổng Tử nói: 'Chính sự hà khắc còn hơn cả hổ dữ!' Than ôi! Nào ngờ đ/ộc của phú liễm còn hơn cả rắn đ/ộc!"
Thông qua bi kịch của người bắt rắn, Liễu Tông Nguyên vạch trần thực tế tàn khốc của xã hội phong kiến "chính sự hà khắc hơn cả hổ dữ". Câu chữ trong "Bắt Rắn" thể hiện sự cảm thông của tác giả đối với nỗi khổ của dân gian, và sự lên án đối với sự bóc l/ột tàn khốc của kẻ thống trị!
Tô Thức bình rằng: "Người đời nay bàn về chỗ khô khan mà cao nhã, nhạt nhẽo mà thực đẹp, thì chỉ có Uyên Minh và Tử Hậu sánh được."
Sau lo/ạn An Sử, nạn phiên trấn cát cứ ngày càng nghiêm trọng, trung ương tập quyền bị thách thức. Tiết độ sứ hy vọng quyền thế của mình được truyền lại cho hậu thế, liền thổi phồng việc khôi phục chế độ phân phong thời Chu, tạo dư luận cho việc cát cứ.
Thủy Hoàng than thở: "Phiên trấn cát cứ chẳng khác nào phân phong!"
Phù Tô càng hiểu rõ một đạo lý, thiên hạ rộn ràng đều vì lợi mà đến, thiên hạ nhốn nháo đều vì lợi mà đi!
Đằng sau cuộc tranh đấu giữa các học phái cũng là tranh giành lợi ích:
"Chỉ những kẻ có được lợi ích mới thổi phồng quy định này."
Liễu Tông Nguyên kiên trì trung ương tập quyền, thấy vậy liền viết "Phong Kiến Luận" để phê phán chế độ phân phong, khẳng định ưu việt của quận huyện chế!
Liễu Tông Nguyên từ thời Nghiêu, Thuấn, Vũ, nhìn lại và phân tích chế độ phân phong một cách toàn diện. Hắn cho rằng chế độ phân phong sinh ra tự nhiên theo sự phát triển của xã hội loài người, chứ không phải ý định của Thánh Nhân.
"Phân phong không phải ý của Thánh Nhân, mà là thế!", thậm chí "Nghiêu, Thuấn, Vũ, Canh, Văn, Võ" cũng "chẳng phải không muốn bỏ đi, mà thế không thể". Chế độ phân phong tồn tại dựa trên nhu cầu và điều kiện thực tế của xã hội lúc đó, chứ không phải quy định thiết kế lý tưởng.
Khu bình luận:
"Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương không muốn thực hành quận huyện chế sao?"
"Là không thể!"
"Nhà Chu mất vì chế độ, không phải vì chính sự. Còn nhà Tần mất vì chính sự, không phải vì chế độ."
Chu Văn Vương nghe xong thấy nhói tim!
Chu Vũ Vương thở dài: "Ai! Cũng là chư hầu theo ta đ/á/nh thiên hạ, nếu thắng lợi mà không cho chúng chỗ tốt, nhà Chu cũng sẽ như nhà Thương mà thôi......"
Thủy Hoàng khẳng khái: "Đất đai Đại Tần là tự mình ta đ/á/nh xuống, không cần chia sẻ với ai!"
Phù Tô ca ngợi: "Phụ hoàng anh minh, ngài đặt ra quận huyện chế là tân tiến nhất, chỉ là người thi hành làm không tốt."
Tào Tháo nhận xét: "Ngụy Tấn hai đời đều 'phong tước còn kiến', kết quả là 'không nghe thấy Diên Tộ'."
Tào Phi ghi nhớ: "Nhi thần xin ghi nhớ, nhất định học hỏi đời sau, đặt ra một quy định tốt hơn."
Lý Thế Dân nói: "Đời Đường 'kiểu mà biến chi, trọng 200 tự'. Sự thật lịch sử là như vậy, hơn hẳn hùng biện!"
Hắn từng nghĩ đến việc khôi phục chế độ phân phong, nhưng được quần thần khuyên can nên thôi.
Mong rằng con cháu đời sau đừng đi vào vết xe đổ!
Liễu Tông Nguyên khẳng định quận huyện chế, cho rằng nó có thể thực hiện việc kh/ống ch/ế và quản lý của trung ương đối với địa phương hiệu quả hơn, tránh được tai họa cát cứ và chiến lo/ạn liên miên của chế độ phân phong. Đồng thời, quận huyện chế cũng thể hiện sự công bằng và chính nghĩa của xã hội, có lợi cho sự phát triển lâu dài của quốc gia.
Khu bình luận:
"Tần 'có phản nhân vô phản lại', Hán 'có phản quốc vô phản quận', Đường 'có phản tướng vô phản châu'. Những điều này đều cho thấy ưu việt của quận huyện chế!"
Lưu Bang phân trần: "Trẫm là bất đắc dĩ, không thể không phân phong, các ngươi lại tự tìm phiền phức!"
Lý Long Cơ than thở: "Một số người không trung thành với triều đình, lại dốc lòng trung nghĩa cho phiên trấn!"
Liễu Tông Nguyên phê phán những lời kêu gọi khôi phục chế độ phân phong, cho rằng những luận điệu này xuất phát từ lợi ích của thế lực cát cứ, chứ không phải vì phúc lợi của quốc gia và nhân dân.
Bài văn này có vị trí quan trọng trong lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc. Nó lên án kịch liệt những lời lẽ sai trái thổi phồng chế độ phân phong, đả kích đám phiên trấn kiêu căng, đồng thời khẳng định việc quận huyện chế thay thế chế độ phân phong là xu thế tất yếu của lịch sử, không ai có thể thay đổi!
Liễu Tông Nguyên chủ trương: "Việc do người làm, dùng người duy hiền!"
"Phong Kiến Luận" lần đầu tiên đưa ra: "Phân phong không phải ý của Thánh Nhân, mà là thế!"
Liễu Tông Nguyên thừa nhận thực tế khách quan, không tin thiên mệnh; Hắn cho rằng từ chế độ phân phong đến quận huyện chế là tiến bộ của lịch sử, còn việc nhà Hán, nhà Đường muốn quay lại chế độ phân phong là thụt lùi; Hắn khẳng định Nghiêu, Thuấn cũng có "tư", lịch sử phát triển không theo ý chí của Thánh Nhân, Thánh Nhân có "chỗ bất đắc dĩ". Ông đã đảo ngược quan niệm về thiên mệnh, lịch sử và thánh hiền mà các nho sĩ hủ bại coi là chính thống......
Đổng Trọng Thư c/âm nín......
Chu Hi nghẹn lời......
Chủ tịch từng nói trong thư gửi Quách Mạt Nhược: "Khuyên quân bớt m/ắng Tần Thủy Hoàng, việc đ/ốt sách ch/ôn nho phải bàn bạc. Tổ Long h/ồn tử nghiệp còn tại, lũ tên khoa học cao thực trấu cám. Trăm đời nhiều đi Tần chính trị, mười tốp không phải hảo văn chương. Đọc thuộc lòng người nhà Đường Phong Kiến Luận, chớ từ Tử Dày trở lại Văn Vương." Đánh giá rất cao bài chính luận này!
Sau mười năm im lặng ở Vĩnh Châu, năm Nguyên Hòa thứ mười (815), Liễu Tông Nguyên được triệu hồi kinh thành. Nhưng Tể tướng đương nhiệm Vũ Nguyên Hành lại là đại diện cho phe phản đối cải cách Vĩnh Trinh, cực kỳ c/ăm gh/ét Liễu Tông Nguyên. Trở lại Trường An, Liễu Tông Nguyên vẫn không được trọng dụng.
Rất nhanh, Liễu Tông Nguyên lại bị biếm thành Thích sử Liễu Châu......
Ở Liễu Châu, Liễu Tông Nguyên phóng thích nô tỳ, lập học đường, dạy học sinh, mở rộng y học, đào giếng nước, khai khẩn đất hoang, cổ vũ trồng cây gây rừng, sửa trị đường phố, xây dựng miếu thờ......
Khu bình luận:
"Người Liễu Châu biết học là từ đây mà ra!"
"Liễu Tông Nguyên phá trừ m/ê t/ín phong kiến địa phương. Người Liễu Châu đời đời kiếp kiếp dựa vào trời, uống nước mưa và nước sông, từ đây được uống nước ngầm sạch sẽ ngọt ngào. Đến nay, Liễu Châu vẫn còn lưu truyền câu chuyện Liễu Tông Nguyên đào giếng."
Cuộc sống biếm trích lâu dài không chỉ khiến Liễu Tông Nguyên gặp khó khăn về vật chất, mà còn phải chịu đả kích tinh thần khổng lồ, nỗi đ/au đớn giày vò trong lòng dần dần tiêu hao hết sinh mạng của hắn......
Ở Liễu Châu, cơ thể Liễu Tông Nguyên suy yếu, bệ/nh tật triền miên. Khoảng thời gian này là gian nan và đ/au đớn nhất của hắn. Dù ở trong hoàn cảnh khốn khó, Liễu Tông Nguyên vẫn giữ liên lạc với những người bạn cùng chí hướng như Lưu Vũ Tích, Hàn Dũ. Tình bạn giữa họ đã bồi bạn Liễu Tông Nguyên cả đời, cũng là niềm an ủi hiếm hoi trong cuộc sống tuổi già của hắn.
Năm Nguyên Hòa thứ mười bốn (819), Hiến Tông tuyên bố đại xá thiên hạ. Dưới sự thuyết phục của Bùi Độ, Liễu Tông Nguyên có cơ hội trở lại kinh thành lần thứ hai. Nhưng ngay đầu mùa đông năm đó, Liễu Tông Nguyên đã qu/a đ/ời ở Liễu Châu, hưởng dương 47 tuổi. Hắn cứ vậy ch*t nơi đất khách quê người, không đợi được chiếu thư đặc xá.
Liễu Tông Nguyên: "Đây chính là cuộc đời ta......"
Lưu Vũ Tích: "Ta muốn viết thư cho Tử Hậu, để hắn nghĩ thoáng ra, đừng tự chuốc khổ như vậy!"
Liễu Tông Nguyên đã phát triển tư tưởng duy vật vô thần luận mộc mạc thời cổ đại lên một tầm cao mới, là nhà tư tưởng kiệt xuất thời nhà Đường.
Ông phản đối thuyết "Hạ Thương Chu đời thứ ba thụ mệnh chi phù" của Đổng Trọng Thư, phản đối thuyết thiên chư, phê phán thần học, cường điệu nhân sự, dùng "người" để thay thế "thần".
Ông còn biến việc phê phán thần học thành phê phán chính trị, dùng quan điểm duy vật để giải thích "thiên nhân lúc", tức mối qu/an h/ệ giữa trời và người: xã hội lịch sử là một quá trình phát triển tự nhiên, có xu hướng phát triển khách quan tất yếu, không theo ý chí của mọi người!
Chương 6
Chương 7
Chương 6
Chương 7
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 8
Bình luận
Bình luận Facebook