Thể loại
Đóng
123
@456
Đăng xuất
Thân cư đất Thục, Đỗ Phủ tình cảnh gian khổ, nhưng vẫn đ/au đáu một cõi lòng ưu quốc ái dân. Hắn nhớ lại chuyện xưa, khi Túc Tông còn ở Linh Vũ, thu phục Quan Trung bằng những hành động vĩ đại: "Nhớ xưa Tiên Hoàng tuần Sóc Phương, ngàn cỗ xe, vạn kỵ tiến vào Hàm Dương". Túc Tông mượn binh Hồi Hột thu phục hai kinh, An Khánh Tự đào vo/ng đến Hà Bắc cố thủ Nghiệp Thành, Sử Tư Minh xuất binh c/ứu viện, rồi lại hàng sau đó phản, khiến Lạc Dương lần nữa thất thủ, mọi chuyện đều nằm trong dự liệu.
Túc Tông cả ngày kinh sợ, lấy lòng Lý Phụ Quốc, bị quản chế trong nỗi hoảng hốt, khiến kỷ cương suy đồi, quốc chính hỗn lo/ạn, đến nỗi Đại Tông ngày nay vẫn phải giải quyết những phiền phức năm xưa.
Đỗ Phủ khi đó là kẻ nhặt nhạnh bên cạnh hoàng đế, tận mắt chứng kiến Đại Tông với thân phận Quảng Bình Vương thu phục hai kinh bằng những hành động vĩ đại. Nhưng giờ đây, Đại Tông lại nghe lời Trình Nguyên Chấn gièm pha, tước binh quyền của Quách Tử Nghi, khiến Thổ Phiên xâm nhập, Trường An thất thủ, trăm quan như lợn đột lang chạy, hoàng đế lại lần nữa phải trốn đi: "Khuyển Nhung ngang nhiên ngồi ngự tọa, trăm quan vứt bỏ mũ áo theo thiên vương".
Chẳng biết đến khi nào mới có thể thấy những bậc dũng sĩ như Phó Giới Tử rửa sạch nh/ục nh/ã. Chỉ cần quốc gia có thể trung hưng, ta có làm hay không cái chức Thượng Thư Lang cũng chẳng đáng kể: "Nguyện gặp đất Bắc Phó Giới Tử, lão nho chẳng cần Thượng Thư Lang".
**Khu bình luận**
"Đây là thơ châm biếm đó, mục đích của Đỗ Phủ là cảnh giới Đại Tông đừng đi vào vết xe đổ của phụ thân."
***
Người già thường hay hồi tưởng. Đỗ Phủ lại nhớ về quá khứ, khi hắn còn nhỏ, thời "Khai Nguyên thịnh thế". Bất kỳ một thành trì nhỏ nào cũng có hơn vạn hộ dân: "Lúa gạo chảy mỡ, ngô trắng nõn nà, kho công, lẫm tư đều chứa đầy thóc lúa". Đường sá Cửu Châu không bóng sói hổ, đi xa chẳng cần chọn ngày lành. Lụa là gấm vóc xe cộ rỡ ràng, trai cày gái dệt chẳng rời nhau. Trong cung Thánh Nhân tấu nhạc Vân Môn, thiên hạ thái bình, muôn vật tốt tươi".
Lý Long Cơ: "Trật tự xã hội ổn định, đường không bóng sói hổ, không có cường đạo, tùy thời có thể đi xa nhà du hành. Phong tục xã hội cũng tốt đẹp, mọi người thân ái, qu/an h/ệ hòa thuận, quốc gia hưng thịnh, chính trị thanh minh, một cảnh tượng thái bình thịnh trị!"
Đó chính là mục tiêu mà bọn họ, quân thần, cùng nhau hướng tới!
Đáng tiếc, Lý Long Cơ bỏ bê chính sự, Đại Đường thịnh cực rồi suy vo/ng. Lo/ạn An Sử n/ổ ra, ruộng đồng hoang vu, giá cả tăng vọt, một tấm vải lụa phải b/án đến hơn vạn quan tiền: "Lạc Dương cung điện ch/áy sạch rồi, tông miếu nay thành hang Hồ Thỏ".
***
Thi nhân vô cùng mong mỏi có thể trở lại quá khứ, cổ vũ hoàng đế trung hưng Đại Đường, khôi phục những ngày tháng phồn vinh!
**Khu bình luận**
"Chức thấp lòng chẳng dám quên ưu!"
"Thân ở lo/ạn thế, bôn ba kỳ hồ, vẫn ôm một tấm lòng ưu quốc ái dân!"
"Đây mới là Thi Thánh mà chúng ta sùng bái!"
***
Năm Công nguyên 765, Nghiêm Vũ bất hạnh mắc bệ/nh qu/a đ/ời tại Thành Đô. Đỗ Phủ vô cùng thương tiếc Nghiêm Vũ, đồng thời dành cho y những đ/á/nh giá rất cao.
Nghiêm Vũ chấn kinh: "Ta mới sống có bốn mươi tuổi thôi mà!"
**Khu bình luận**
"Nhan Hồi lại ch*t yểu, Giả Nghị giữa đường lìa trần. Hắn đem Nghiêm Vũ so sánh với Nhan Hồi, Giả Nghị, cho rằng Nghiêm Vũ ch*t sớm là điều đáng tiếc cho trần thế."
"Lại đem y so sánh với Gia Cát Lượng, và Văn Ông thời Hán Vũ Đế: 'Gia Cát được lòng người Thục, Văn Ông dùng Nho giáo cảm hóa dân. Công đến núi tuyết nặng, công đi núi tuyết nhẹ'. Nghiêm Vũ đến rồi đi khiến cho núi non đất Thục cũng vì đó nhẹ gánh nặng."
Nghiêm Vũ: "Ha ha ha, ta cũng coi như lưu danh sử sách..."
***
Người ch*t đã ch*t rồi, Đỗ Phủ lại mất đi người bảo vệ sau cùng, không thể không rời khỏi Thành Đô, dắt díu cả nhà ngược dòng về phía đông, qua Gia Châu (Lạc Sơn), Nhung Châu (Nghi Tân), Du Châu (Trùng Khánh), Trung Châu (Trung Huyện), Vân An (Vân Dương), năm sau đến Quỳ Châu (Phụng Tiết).
Dọc theo con đường này, hắn thấy được rất nhiều di tích tiền nhân để lại, không khỏi cảm khái bồi hồi, lưu lại năm bài "Vịnh Hoài Cổ Tích".
Ở nơi ở cũ của Dữu Tín, Đỗ Phủ viết: "Dữu Tín cả đời long đong nhất, tuổi già thơ phú động sông Quan".
Nam Lương Dữu Tín: "Câu này nói ta đây!"
**Khu bình luận**
"Dữu Tín là nhà văn học thời Nam Bắc triều, xuất thân từ một gia tộc trâm anh thế phiệt, năm đời có văn tập, từ nhỏ đã tuấn tú, thông minh tuyệt luân, sau trở thành môn khách của Chiêu Minh Thái Tử Tiêu Thống."
"Lo/ạn Hầu Cảnh, Dữu Tín trốn đến Giang Lăng, nương nhờ Lương Nguyên Đế, đồng thời phụng mệnh đi sứ Tây Ngụy. Sau khi Nam Lương diệt vo/ng, y ở lại Tây Ngụy, làm đến chức Xa Kỵ Đại Tướng Quân, Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ti, được đời xưng là Dữu Khai Phủ."
"Dữu Tín ở phương Bắc thân cư hiển quý, trở thành văn đàn tông sư, được hoàng đế lễ ngộ, cùng chư vương kết giao như bạn bè áo vải, nhưng lúc nào cũng tưởng nhớ cố thổ, x/ấu hổ vì làm quan cho nước địch, oán h/ận vì không được tự do."
"Kinh nghiệm sống đặc th/ù khiến y có thể dung hợp văn phong Nam Bắc, kết nên quả ngọt 'gồm cả cái hay của Nam Bắc'. Được xưng là người tổng kết thơ ca Ngụy Tấn Nam Bắc triều, đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của thơ ca thời Đường!"
Những lời sau đó Dữu Tín không để ý, y chỉ để ý một điểm duy nhất, đó là y sẽ phải làm quan cho nước địch!
Sau khi Nam Lương diệt vo/ng, Lương thần bèo dạt mây trôi, kẻ thì làm quan ở phương Bắc, người thì đi nương nhờ Nam Trần, không ai có thể may mắn thoát khỏi...
***
Tại Tống Ngọc Trạch, Đỗ Phủ lưu lại: "Lưu lạc mới hay Tống Ngọc buồn, phong lưu nho nhã cũng thầy ta".
**Khu bình luận**
"Tống Ngọc là hậu duệ của Tống Quốc Công tộc, sinh ra ở nước Sở, từng làm quan dưới trướng Sở Khoảnh Tương Vương, sau khi Sở Khoảnh Liệt Vương bị Xuân Thân Quân lấn át, Tống Ngọc cũng bị bãi miễn hết thảy chức vụ. Năm 222 trước Công nguyên, Sở quốc diệt vo/ng, Tống Ngọc qu/a đ/ời, hưởng thọ 76 tuổi."
"Đương nhiên, y nổi danh nhất vẫn là từ phú, từ phú của y chịu ảnh hưởng nhiều từ Khuất Nguyên, có tác phẩm tiêu biểu là 'Cửu Biện', y soạn nhạc 'Dương Xuân', 'Bạch Tuyết' là những đại danh từ cho âm nhạc cao nhã."
***
Tại Chiêu Quân thôn, Đỗ Phủ vì Vương Chiêu Quân kêu oan: "Quần sơn vạn khe đổ về Kinh Môn, lớn lên Minh Phi vẫn còn thôn. Vừa đi Tử Đài liền đến Sóc Mạc, chỉ còn thanh m/ộ hướng hoàng hôn. Họa đồ vô tình xuân gió mặt, hoàn bội luống uổng về đêm Nguyệt H/ồn. Ngàn năm tì bà làm tiếng Hồ, rõ ràng oán h/ận khúc bên trong luận".
Đi tắt qua Vĩnh An Cung và Tiên Chủ Miếu, hắn nhớ đến Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị ch*t bệ/nh ở thành Bạch Đế: "Thục Chủ ngó Ngô qua Tam Hà, băng hà năm ấy tại Vĩnh An Cung... Vũ Hầu từ đường thường lân cận, một thể quân thần tế tự cùng".
Tại Vũ Hầu Từ, thi hứng của hắn càng thêm dạt dào, viết nên rất nhiều tác phẩm xuất sắc được người đời yêu thích: "Gia Cát đại danh lừng vũ trụ, tông thần di ảnh rạng non cao. Ba phần thiên hạ mưu lược định, muôn thuở mây xanh một chiếc lông. Sánh vai gặp gỡ Y Doãn Lã Vọng, chỉ huy nhược định mất Tiêu Hà Tào. Vận Hán dời đổi khó bề khôi phục, chí lớn thân vo/ng khổ nhọc thân".
**Khu bình luận**
"Thừa tướng từ đường nơi nào tìm, gấm quan ngoài thành cây cối um tùm. Chiếu rọi bậc thềm xuân sắc biếc, cách lá oanh vàng tiếng véo von. Ba phen trăn trở lo việc nước, hai triều mở tế tấm lòng son. Chưa xuất sư thân đã thác, anh hùng lệ ướt đẫm vạt áo. - "Thục Tướng""
"Công che ba phần nước, tên thành đồ bát quái. Sông trôi đ/á chẳng chuyển, h/ận nuốt Ngô không thành. - "Bát Trận Đồ""
Gia Cát Lượng: Đến mỗi khi thiên hạ lo/ạn lạc, người đời lại nhớ đến ta. Đáng tiếc, ta đến cả việc nhà mình còn không xong, làm sao có thể phù hộ được hậu nhân.
***
Đỗ Phủ lựa chọn năm vị cổ nhân này đều có một điểm chung, đó là họ đều có phẩm đức cao thượng, tài học xuất chúng, nhưng cũng đều có thân thế thê lương, và nỗi tiếc nuối vì chí lớn không thành.
Điều này biết bao tương tự với kinh nghiệm của Đỗ Phủ, hắn cũng hoạn lộ long đong, chịu nỗi khổ bôn ba kỳ hồ, không khỏi tìm ki/ếm sự ký thác tâm linh vào những bậc cổ nhân.
Đến Quỳ Châu, Đô đốc Bách Mậu Lâm hết sức chiếu cố Đỗ Phủ, Đỗ Phủ có thể ở lại đây, giúp công gia quản lý trăm khoảnh ruộng công, tự mình cũng thuê một ít ruộng công, m/ua bốn mươi mẫu vườn cây ăn trái, thuê mấy người làm công.
Thời kỳ này là đỉnh cao sáng tác của Đỗ Phủ, chưa đầy hai năm, hắn viết đến bốn trăm ba mươi bài thơ, chiếm 30% số tác phẩm hiện có.
Mùa thu năm ấy, Đỗ Phủ năm mươi sáu tuổi tự mình leo lên đài cao bên ngoài thành Bạch Đế ở Quỳ Châu, nhìn ra xa dòng sông thu xào xạc, hồi tưởng đến thân thế long đong phiêu dạt, bệ/nh cũ cô buồn, viết nên bài thơ được vinh dự là "Thất luật chi quan" - "Đăng Cao"!
"Gió mạnh trời cao vượn kêu buồn, bãi trong veo, chim trắng bay về. Lá rụng ngút ngàn xào xạc xuống, sông dài cuồn cuộn mãi tuôn trôi. Muôn dặm thu buồn thường làm khách, trăm năm lắm bệ/nh một mình lên đài. Gian nan khổ h/ận sương pha tóc, thất vọng đành thôi chén rư/ợu đầy."
Nhiều người nhớ lại bài "Vọng Nhạc" mà Đỗ Phủ viết khi còn trẻ, cùng một người viết hai bài thơ, lại thể hiện hai loại khí chất hoàn toàn khác biệt!
Hàn Dũ: "Trong một bài, câu nào cũng đúng luật, trong một câu, chữ nào cũng hợp niêm."
Dương Vạn Lý: "Từ nguyên đảo ngược Tam Hà nước, bút trận quét tan ngàn quân địch."
Đỗ Phủ chí lớn chưa thành thân đã già, trong bài thơ này, hắn trút hết nỗi thống khổ và phiền muộn trong lòng, vẻ u sầu ngàn vạn khiến người đọc buồn bã xót xa...
Lý Bạch: "Mùa thu không nhất định đáng buồn, chỉ là Tử Mỹ hiền đệ mắt thấy cảnh thu rộng lớn thê lương, lại nghĩ đến tình cảnh lưu lạc tha hương, tuổi già lắm bệ/nh của mình, mới sinh ra vô vàn sầu bi."
Đỗ Phủ chợt nghĩ đến, những người bạn tốt của hắn đều đã qu/a đ/ời, chỉ còn lại một mình hắn cô đơn trên thế gian này, thật là hoang vu biết bao...
Đỗ Thẩm vô cùng đ/au lòng trước cảnh ngộ của cháu mình, ông cũng là một thi nhân nổi tiếng, thấu hiểu sâu sắc ý tứ trong thơ: "Muôn dặm, địa chi xa thay; Thu buồn, thời chi thảm thay; Làm khách, sống nơi đất khách quê người thay; Thường làm khách, lâu lữ thay; Trăm năm, tuổi già thay; Lắm bệ/nh, suy yếu thay; Đài, cao khác biệt thay; Một mình lên đài, không bạn bè thay. Mười bốn chữ chứa tám nỗi khổ, thật là thảm thay!"
***
Năm Công nguyên 768, Đỗ Phủ năm mươi bảy tuổi dường như cảm giác được mình sắp tận số, muốn lá rụng về cội, lên phía bắc về Lạc Dương. Hắn xuôi dòng Trường Giang về phía đông, qua Tam Hà, đến Giang Lăng, qua Công An, cuối năm đến Nhạc Dương ở Hồ Nam.
Tại Nhạc Dương, Đỗ Phủ leo lên Nhạc Dương Lâu mà hắn hằng mong ước, tựa lan can trông về phía xa, đối diện với khói sóng mênh mông, Động Đình Hồ bao la hùng vĩ vô ngần, nghĩ đến cảnh đời phiêu bạt vô định lúc tuổi già, quốc gia nhiều tai ương, không khỏi cảm khái bồi hồi: "Xưa nay nghe Động Đình Hồ, nay lên Nhạc Dương Lầu. Ngô Sở đông nam rường cột, càn khôn ngày đêm trôi. Bạn bè bặt vô âm tín, bệ/nh cũ có thuyền đơn. Chinh chiến ngoài quan ải bắc, tựa lan can nước mắt tuôn. - "Lên Nhạc Dương Lầu""
Cao Th適: "Bài thơ này tuy trầm thấp u uất, nhưng lại phóng khoáng tự nhiên, hùng h/ồn đại khí, khí độ siêu phàm!"
Đỗ Phủ: "Than ôi, mắt thấy quốc gia ly tán mà lực bất tòng tâm, chỉ còn một tấm lòng nhiệt huyết báo quốc vô môn..."
Nguyên Chẩn: "Đỗ Công Bộ canh cánh bên lòng quân vương, quốc gia, nhân dân, nhưng lại tin tức đoạn tuyệt, không biết tình hình triều chính, đó là một cảm giác cô đ/ộc bị cả thiên hạ lãng quên, tinh thần của y không khỏi đ/au đớn!"
Bạch Cư Dị: "Cả nhà chen chúc trên một con thuyền nhỏ phiêu bạt sống qua ngày, tin tức đoạn tuyệt, tuổi già lắm bệ/nh, thuyền đơn phiêu bạt, biết bao thê lương..."
Hàn Dũ: "Thuyền đơn tuy nhỏ nhưng lại chở cả thiên hạ, trong thân thể già yếu lắm bệ/nh, vẫn nung nấu một tấm lòng ưu quốc ái dân thành tâm thành ý. Đỗ Công Bộ lúc nào cũng có thể liên hệ vận mệnh của bản thân với vận mệnh của quốc gia."
***
Cảm tạ các bạn đã ủng hộ mình bằng cách tặng phiếu Bá Vương hoặc tưới dịch dinh dưỡng trong khoảng thời gian từ 2024-05-20 02:16:28 đến 2024-05-21 02:27:16 nha!
Cảm tạ Trần Tiểu Meo đã tưới 2 bình dịch dinh dưỡng; Đi đến chỗ nước cạn, ngồi xem mây lên đã tưới 1 bình;
Vô cùng cảm tạ mọi người đã ủng hộ, mình sẽ tiếp tục cố gắng!
Chương 6
Chương 7
Chương 6
Chương 7
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 8
Bình luận
Bình luận Facebook