Cùng Sầm Tham, Cao Thích, Vương Xươ/ng Linh được đời xưng là "Tứ đại Thi nhân vùng biên ải" thời Đường, còn có Vương Chi Hoán.

Vương Chi Hoán xuất thân từ dòng dõi Thái Nguyên Vương thị, thuở nhỏ thông minh hiếu học, ngoài hai mươi tuổi đã thông làu kinh điển. Khi còn trẻ, hắn phóng khoáng không bị trói buộc, thích hành hiệp trượng nghĩa, giao du rộng rãi.

Trong những năm Khai Nguyên, Vương Chi Hoán nhờ ân ấm tổ tông mà bước vào con đường làm quan, trở thành Hành Thủy chủ bộ. Không lâu sau, hắn bị người phỉ báng h/ãm h/ại, liền dứt áo từ quan, về nhà an nhàn.

Xuất thân cao môn vọng tộc, Vương Chi Hoán chẳng màng chút bổng lộc mỏng manh. Từ năm Khai Nguyên thứ mười lăm đến năm thứ hai mươi chín, hắn ở nhà nhàn cư mười lăm năm, chuyên tâm làm thơ, khắp nơi thăm bạn, khiêm tốn thỉnh giáo, cùng Vương Xươ/ng Linh và những người khác xướng họa, thơ danh nổi như cồn.

Tại Bồ Châu (Sơn Tây), quê hương của hắn, Vương Chi Hoán leo lên danh thắng Cổ Tước Lâu, viết nên: "Bạch nhật y sơn tận, Hoàng Hà nhập hải lưu. Dục cùng thiên lý mục, canh thượng nhất tằng lâu. ——《 Đăng Cổ Tước Lâu 》". Từ đó, Cổ Tước Lâu danh dương thiên hạ!

Lý Bạch khen: "Khai bút liền có co lại vạn dặm vào gang tấc, khiến cho gang tấc có vạn dặm chi thế."

Đỗ Phủ tán: "Sau đôi câu triết lý cũng khiến người tỉnh ngộ, ví công Viễn thế Cổ Mạc so, gang tấc ứng cần luận vạn dặm."

Cao Thích ca ngợi: "Đứng cao trông xa, lòng dạ mở mang, như thiên quân cự chuyên, khí thế bàng bạc!"

...

Hai câu đầu, thi nhân dùng ngôn ngữ cực kỳ giản dị, hình tượng hóa độ cao, thu cả vạn dặm non sông vào mười chữ ngắn ngủi. Hai câu sau viết nên sự tìm tòi của thi nhân đối với thế giới: muốn trông xa hơn, ắt phải đứng cao hơn.

Bài thơ nghìn năm có một không hai này được viết vào thời Khai Nguyên thịnh thế, tràn đầy khí tượng hăng hái hướng lên của Thịnh Đường, khích lệ hậu nhân quyết chí tự cường, ngày nay được dùng tại rất nhiều nơi ngoại giao trọng đại, nổi tiếng thế giới!

Cổ Tước Lâu nhờ thơ mà nổi danh, về sau các thi nhân kìm nén không được tâm tình kích động, đều muốn cùng Vương Chi Hoán so tài cao thấp. Thế là, Cổ Tước Lâu trở thành nơi Đường đại thi nhân thi thố tài năng, lưu lại rất nhiều tác phẩm xuất sắc.

Hà Đông tài tử Sướng Đạo viết: "Khác hẳn lâm phi điểu, cao hơn thế trần gian. Thiên thế vây bình dã, dòng sông nhập đoạn sơn."

Một trong Thập tài tử Đại Lịch là Cảnh Vi viết: "Lâu khách tâm thường túy, cao ốc nhật tiệm đê. Hoàng Hà kinh nội thủy, Hoa Nhạc trấn quan tây. Viễn khứ thiên phàm tiểu, trì lai đ/ộc điểu mê. Chung niên vô đắc ý, không cảm phụ đông khê."

Tuy đều có thể xem là danh tác, nhưng cuối cùng không ai sánh bằng Vương Chi Hoán, đ/ộc chiếm vị trí đầu!

Thi nhân cuối Đường Tư Mã Trát viết: "Lâu trung kiến vạn lý, lâu ảnh nhập thông tân. Thụ sắc viễn phân cấp, sơn hà khúc hướng Tần. Hưng vo/ng lưu bạch nhật, kim cổ cộng hồng trần. Quán Tước phi hà xứ, thành đầu thảo tự xuân."

Thi nhân cuối Đường đối mặt thời cuộc hỗn lo/ạn, tự thân nghèo túng, không còn sự khoáng đạt lạc quan của Vương Chi Hoán.

Trong mắt họ, Cổ Tước Lâu không còn là thắng cảnh "Dục cùng thiên lý mục, canh thượng nhất tằng lâu" thuở trước, mà là nơi mây khói bao phủ, bóng tối trùng trùng, trời chiều bóng xế, cỏ cây tiêu điều, khiến người thương tâm...

Về bài thơ này, còn có một đoạn án văn. Tương truyền, khi 《 Đăng Cổ Tước Lâu 》 vừa ra mắt, mọi người chỉ cảm thấy thơ thuộc làu làu, ý cảnh lạ thường, nhưng không biết tác giả là ai. Lúc bấy giờ, hoàng đế nghe nói bài thơ này, liền hỏi đại thần Lý Kiệu bên cạnh, Lý Kiệu nảy sinh tà niệm, tâu rằng đó là thơ của hảo hữu Chu Tá Nhật.

Chu Tá Nhật nhận được phần thưởng hậu hĩnh không thuộc về mình, còn tác giả chân chính Vương Chi Hoán thì chẳng ai đoái hoài.

Hậu nhân vì bênh vực hắn, bèn biên soạn một câu chuyện Vương Chi Hoán, Cao Thích, Vương Xươ/ng Linh đ/á/nh cược thi thơ ở tửu lầu, còn để Vương Chi Hoán giành vị trí thứ nhất. Đó chính là điển tích nổi tiếng "Kỳ đình họa bích", đến đời Nguyên còn được dựng thành tạp kịch.

Lại nói, một ngày nọ, ba vị thi nhân Vương Xươ/ng Linh, Cao Thích, Vương Chi Hoán cùng nhau uống rư/ợu ở tửu lầu, chợt thấy đám quan lại vườn lê mang theo hơn mười đệ tử lên lầu yến ẩm. Ba người bèn lẩn tránh, trốn vào góc tối, xem họ biểu diễn.

Các ca kỹ vườn lê biểu diễn những khúc ca nổi tiếng, Vương Xươ/ng Linh và hai người kia bèn đ/á/nh cược xem thơ của ai được hát nhiều nhất, người đó sẽ thắng.

Một ca kỹ hát: "Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô, bình minh tống khách Sở Sơn Cô. Lạc Dương thân hữu như tương vấn, nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ." Vương Xươ/ng Linh vui vẻ vẽ một vạch lên vách tường.

Ca kỹ thứ hai hát: "Khai hạp lệ chiêm ức, kiến quân nhật tiền sách. Dạ đài hà tịch mịch, hoàn thị Tử Vân cư." Đây là một tuyệt cú của Cao Thích.

Ca kỹ thứ ba hát: "Phụng y vừa hiểu kim điện khai, cường phù quạt tròn cộng bồi hồi. Ngọc nhan bất cập hàn nha sắc, do đới Chiêu Dương nhật ảnh lai." Vẫn là tuyệt cú của Vương Xươ/ng Linh.

Trong ba người, Vương Chi Hoán lớn tuổi nhất, thành danh lâu nhất, nhưng thơ của hắn lại chưa được ai hát, không khỏi có chút mất hứng.

Hắn không phục nói: "Ba ca kỹ này đều không nổi danh, hát toàn những ca khúc 'hạ lý ba nhân', không lọt tai. Những khúc 'Dương Xuân Bạch Tuyết' cao nhã, đâu phải thứ các nàng hát được." Nói rồi, hắn chỉ vào ca kỹ xinh đẹp nhất, nói: "Nếu nàng hát không phải thơ ta, ta sẽ không so thơ với các ngươi nữa. Nếu quả thật là thơ ta, các ngươi phải bái ta làm sư!"

Ba người vừa nói vừa cười, chờ đợi ca kỹ xinh đẹp nhất lên đài hát: "Hoàng Hà viễn thượng bạch vân gian, nhất phiến cô thành vạn nhận san. Khương địch hà tu oán dương liễu, xuân phong bất độ Ngọc Môn quan."

Đây chính là 《 Lương Châu Từ 》 của Vương Chi Hoán. Lúc này, hắn đắc ý nói: "Sao hả, hai kẻ nhà quê, ta nói không sai chứ?"

...

Câu chuyện này tuy do hậu nhân biên soạn, nhưng 《 Lương Châu Từ 》 quả thật đã trở thành kinh điển được người người truyền xướng, được vinh dự "Truyền khắp chương nhạc, bố trong nhân gian", là đại diện tiêu biểu của "Đường Âm"!

Sóng Hoàng Hà cuồn cuộn trào dâng như dải lụa bay lên giữa mây trắng, đối lập với câu "Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai" của Lý Bạch, lại thể hiện một vẻ đẹp tĩnh lặng.

Mây trắng xa xăm và cô thành gần kề tạo nên sự tương phản rõ rệt, trong cô thành hẳn có chinh phu trấn thủ biên cương, ngầm dẫn đến tâm lý miêu tả của chinh phu ở câu tiếp theo.

Vương Duy từng viết: "Viễn tri Hán sử Tiêu Quan ngoại, tư kiến cô thành lạc nhật biên."

Khương Địch thổi chính là điệu 《 Chiết Dương Liễu 》. Thời Đường có tục bẻ liễu tiễn đưa, nghe khúc ca này, tự nhiên sẽ xúc động nỗi buồn ly biệt của chinh phu.

Tiếc thay, ngoài Ngọc Môn quan, gió xuân không đến, muốn bẻ liễu tiễn đưa cũng không được...

Ban Siêu từng nói: "Không nguyện sinh nhập Tửu Tuyền quận, đã nguyện sinh nhập Ngọc Môn quan."

...

《 Lương Châu Từ 》 của Vương Chi Hoán tuy ẩn chứa nỗi nhớ nhà và ly biệt, viết nên sự bi tráng thê lương, nhưng không hề có chút suy sụp tinh thần, mà là buồn trong có tráng, bi thương mà hào sảng!

Điều đó tạo nên sự khác biệt rõ rệt so với thơ vùng biên ải thời Trung Đường, ví như 《 Hà Hoàng Cựu Tốt 》 của Trương Kiều: "Thiếu tiểu tòng quân thủ Hà Hoàng, đầu bạch phương nhiên hoàn cố hương. Thập vạn Hán binh sơ lạc tận, đ/ộc xuy biên khúc hướng tà dương."

Đó chính là khí tượng rộng lớn của Thịnh Đường khác biệt với Trung - Vãn Đường!

Năm Thiên Bảo, Vương Chi Hoán được bạn bè khuyên bảo, tái xuất làm quan, giữ chức huyện úy Văn An. Nơi ông cai quản trong sạch, lý lẽ công bằng, được dân chúng kính yêu, cuối cùng mất tại nhiệm sở Văn An, hưởng thọ năm mươi lăm tuổi.

Tác phẩm truyền thế của Vương Chi Hoán rất ít, 《 Toàn Đường Thi 》 chỉ có sáu bài thơ của hắn. Bất quá, chỉ bằng hai bài 《 Đăng Cổ Tước Lâu 》 và 《 Lương Châu Từ 》 đã giúp Vương Chi Hoán giành được vị trí lưu danh muôn đời trong thi đàn!

Vương Chi Hoán: "Nếu hậu nhân yêu thích thơ ta đến vậy, ta nên chỉnh lý thơ văn, biên soạn thành tập!"

Hậu thế học sinh: "..."

Thơ vùng biên ải Thịnh Đường là một trào lưu lớn. Ngoài bốn thi nhân nổi tiếng kể trên, còn rất nhiều người khác có tác phẩm lưu danh.

Sáu câu đầu của bài 《 Cổ Ý 》 của Lý Hân viết về sự hào hiệp phong lưu tiêu sái, dũng mãnh cương liệt của người trấn thủ biên cương: "Nam nhi sự nghiệp trưng chiến, thiếu tiểu U Yến khách. Đánh bạc thắng dưới vó ngựa, từ đâu nhẹ thân bảy thước..." Sáu câu sau viết hết tình ly biệt, nỗi khổ chinh chiến: "... Liêu Đông tiểu phụ thập ngũ lục, quán tập tì bà giải ca vũ. Kim vi Khương Địch viễn chinh thanh, sử ngã tam quân lệ như vũ."

Một tác phẩm tiêu biểu khác của hắn là 《 Cổ Tòng Quân Hành 》 được sáng tác vào năm Thiên Bảo. Lúc đó, Đường Huyền Tông thiết lập mười Tiết độ sứ, quản lý biên cương, quân trấn binh mã gần năm trăm ngàn người.

Trước thời Khai Nguyên, mỗi năm quân phí chỉ cần hai triệu tiền. Sau thời Thiên Bảo, lại cần hơn mười triệu tấm vải, một triệu chín mươi vạn hộc lương thảo, "Công tư cùng khốn phí, dân bắt đầu khốn khổ rồi."

Lý Hân mẫn duệ thấy được bóng tối dưới thời thịnh thế, thấy được sự lầm than mà chiến tranh mang lại cho dân chúng:

"Bạch nhật đăng sơn vọng phong hỏa, hoàng hôn ẩm mã bàng giao hà. Hành nhân điêu đấu bão sa ám, công chúa tì bà u oán đa...

Nghe đạo Ngọc Môn do bị yểm, ưng tương sinh mệnh trục kh/inh xa. Mỗi niên chiến cốt mai hoang ngoại, không kiến bồ đào nhập Hán gia."

Nhìn thấy "công chúa", "tì bà" liền nghĩ đến việc chiêu quân biên ải xa xôi.

Nhìn thấy "bồ đào" liền nghĩ đến Trương Khiên đi sứ Tây Vực.

Hán Vũ Đế: "Hừ, lại mượn ta chỉ cây dâu mà m/ắng cây hòe, muốn m/ắng Lý Long Cơ thì cứ quang minh chính đại mà m/ắng!"

Bài thơ mượn chuyện đời Hán để nói chuyện đương thời, châm biếm việc Đường Huyền Tông dụng binh. Vì sợ phạm húy, nên cố ý thêm chữ "cổ" vào tiêu đề.

Thi nhân phê phán gay gắt việc Đường Huyền Tông thích làm lớn, chuộng công to, coi sinh mệnh như cỏ rác. Ngàn vạn thi cốt ch/ôn ở hoang dã, chỉ đổi được nho đến Trung Nguyên, cung cấp cho kẻ giàu sang hưởng thụ.

《 Cổ tòng quân hành 》 tuy là thơ biên tái, lại tràn đầy tư tưởng phản chiến!

Lý Hân: "Ngươi đoán ta vì sao phải mượn xưa nói nay, còn không phải lo bị quyền quý nắm thóp, khó giữ được cái mạng nhỏ này!

Bất quá, cả đời ta cũng chỉ làm huyện úy một huyện nhỏ, chắc sẽ không ai để ý đến ta đâu."

Còn có Lư Luân, thi nhân thời Trung Đường, thơ của hắn tràn đầy khí khái anh hùng, khiến người phấn chấn, thể hiện sự phóng khoáng của Thịnh Đường!

"Lâm ám thảo kinh phong, tướng quân dạ dẫn cung. Bình minh tầm bạch vũ, một tại Thạch Lăng trung." "M/ộ vân không tịch nhạn hành cao, đơn vu dạ độ đào. Dục tương kh/inh kỵ trục, đại tuyết mãn cung đ/ao. ——《 Tái hạ khúc 》"

Ngoài ra, các đại thi nhân Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy đều viết thơ biên tái. 《 Quan Sơn Nguyệt 》, 《 Tái Hạ Khúc 》 của Lý Bạch, 《 Binh Xa Hành 》 của Đỗ Phủ, 《 Sử Chí Tắc Thượng 》 của Vương Duy đều là những danh thiên được người đời yêu thích!

(Khu bình luận)

"Ngũ nguyệt Thiên Sơn tuyết, vô hoa chỉ hữu hàn. Địch trung văn chiết liễu, xuân sắc vị tằng khan. Hiểu chiến tùy kim cổ, tiêu miên bão ngọc yên. Nguyện tương yêu hạ ki/ếm, trực vi trảm Lâu Lan. ——《 Tái hạ khúc 》"

"Minh nguyệt xuất Thiên Sơn, thương mang vân hải gian. Trường phong kỷ vạn lý, xuy độ Ngọc Môn quan. ——《 Quan Sơn Nguyệt 》"

"Dương cung đương trương cường, dụng tiến đương dụng trường. Cầm tặc tiên cầm vương, xạ nhân tiên xạ mã. Sát nhân diệc hữu hạn, liệt quốc tự hữu cương. Cẩu năng chế xâm lăng, hà tất đa sát thương. ——《 Xuất tái viễn chinh 》"

...

Cảm tạ các vị đã ủng hộ!

Danh sách chương

5 chương
21/10/2025 16:07
0
21/10/2025 16:07
0
28/11/2025 12:12
0
28/11/2025 12:11
0
28/11/2025 12:11
0

Có thể bạn quan tâm

Bình luận

Bình luận Facebook

Đăng nhập
Tài khoản của bạn bị hạn chế bình luận
Hủy
Xem thêm bình luận

Đọc tiếp

Đăng nhập để đồng bộ lịch sử trên nhiều thiết bị

Bảng xếp hạng

Top ngày

Bình luận
Báo chương xấu