Thể loại
Đóng
123
@456
Đăng xuất
Hai kinh thất thủ, những kẻ từng giữ chức quan phản quân đều bị phán tội ch*t, giam vào ngục tối. May mắn thay, Vương Duy khi bị giam ở chùa đã viết bài "Ngưng Bích Trì":
"Vạn hộ thương tâm sinh dã yên,
Bách liêu hà nhật cánh triều thiên.
Thu hòe diệp lạc không cung lý,
Ngưng Bích trì đầu tấu quản huyền."
Bài thơ thể hiện tâm tư của hắn, thiên hạ bách tính thương xót cảnh thành trì chìm trong khói lửa, triều thần mong ngóng ngày được bái kiến thiên tử. Lá thu rơi đầy thâm cung vắng vẻ, khúc nhạc "Ngưng Bích" vẫn vang lên giữa yến tiệc ăn mừng.
Bài thơ ấy ghi lại sự thật về lo/ạn An Sử, là tiếng ai oán của thần tử mất nước, tràn ngập bi phẫn. Vương Duy nhờ có em trai là Vương Tấn lập công bình lo/ạn, xin xá tội cho huynh, mới được tha thứ, giáng làm Thái tử công chính.
Sau đó, Vương Duy ẩn cư ở Mạnh Tân, để lại nhiều áng thơ bất hủ, như "Quân từ cố hương lai, Ứng tri cố hương sự. Lai nhật Kh绮窗 tiền, Hàn mai trước hoa vị?" (Thơ tạp) được viết trong thời gian này.
Năm 760, Vương Duy được thăng làm Thượng thư hữu thừa, chức quan cao nhất trong đời, cũng là cuối cùng. Năm 761, Vương Duy dâng sớ xin bãi miễn mọi chức quan, đổi lấy việc em trai được trở về kinh sư. Vài tháng sau, Vương Duy từ biệt thân hữu, an bài hậu sự rồi qu/a đ/ời, hưởng thọ sáu mươi mốt tuổi.
Bùi Địch, bạn tốt của hắn, cảm khái: "Nếu không có lo/ạn An Sử, ngươi đã có thể bình yên sống hết quãng đời còn lại."
Vương Duy đáp: "Kinh sư thất thủ, thiên hạ đại lo/ạn, ta còn có thể sống sót, đã may mắn hơn muôn dân rồi."
Hiện nay, thơ Vương Duy còn hơn 400 bài, nổi tiếng nhất là thơ sơn thủy điền viên:
"Nhàn ngọa quế hoa lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn không.
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh xuân giản trung."
(Điểu minh giản)
Tạ Linh Vận: "Nguyệt xuất kinh sơn điểu, Thời minh xuân giản trung. Lấy động tả tĩnh, thật tinh diệu!" Hắn ít khi phục ai, nhưng lại rất thích thơ văn của Vương Duy.
Thơ Vương Duy còn có những câu biên tái hào hùng như: "Đại mạc cô yên trực, Trường hà lạc nhật viên." Lại có những vần thơ vạch trần hiện trạng xã hội, cảm khái thân tài bất ngộ:
"Mạc dĩ kim thì sủng,
Nan vo/ng cựu nhật ân.
Khán hoa mãn diện lệ,
Bất cộng Sở Vương ngôn."
(Tức phu nhân)
Lời bình:
"Đừng tưởng rằng sủng ái hiện tại có thể khiến ta quên ân tình xưa, ta tuy không thể phản kháng, nhưng có thể im lặng."
"Tức phu nhân vốn là vợ của vua nước Tức thời Xuân Thu, sau Tức bị Sở diệt, bà bị Sở Vương chiếm làm của riêng. Bà sinh cho Sở Vương hai con trai, nhưng không chịu nói với Sở Vương một lời, để giữ khí tiết."
"Đương thời, Ninh Vương Lý Hiến, ca ca của Đường Huyền Tông, ngang nhiên cư/ớp vợ người b/án bánh. Một hôm, Lý Hiến mở tiệc, cho gọi người b/án bánh đến phủ, người vợ thấy chồng thì nước mắt tuôn rơi. Vương Duy tận mắt chứng kiến cảnh lo/ạn ấy, nên viết bài thơ này!"
Thơ tiễn biệt của Vương Duy cũng rất nổi tiếng: "Khuyến quân canh tận nhất bôi tửu, Tây xuất Dương Quan vô cố nhân." (Tống Nguyên nhị sứ An Tây), hay "Hồng đậu sinh nam quốc, Xuân lai phát kỷ chi? Nguyện quân đa thải擷, Thử vật tối tương tư." (Tương tư). Hai bài thơ này được nhạc nhân phổ nhạc, danh dương thiên hạ!
"Nhạc Thánh" Lý Quy Niên: "Một mạch tự nhiên, uyển chuyển hàm súc, lời cạn ý sâu." Hữu nhân viết thơ, hắn dĩ nhiên phải soạn khúc hay nhất, để giúp bạn nổi danh!
Thơ sơn thủy điền viên của Vương Duy đ/ộc đáo, không chỉ kế thừa và phát huy truyền thống thơ sơn thủy do Tạ Linh Vận khai sáng, mà còn thu nạp sự bình dị của Đào Uyên Minh, đưa thơ sơn thủy điền viên lên một tầm cao mới, trở thành lá cờ đầu của thi đàn Thịnh Đường, cùng Mạnh Hạo Nhiên được gọi là "Vương Mạnh". Bởi phong cách thơ văn và thái độ sống, Vương Duy còn được hậu nhân xưng là "Thi Phật"!
Họa của Vương Duy cũng không hề kém cạnh, ông khai sáng dòng tranh văn nhân, được gọi là "Nam tông sơn thủy chi tổ", tranh văn nhân đời Tống về sau đều chịu ảnh hưởng của Vương Duy. Đáng tiếc, tác phẩm thật của Vương Duy không lưu truyền đến nay.
Tô Thức đ/á/nh giá Vương Duy rất kinh điển: "Vị M/a Cật chi thi, thi trung hữu họa; Quan M/a Cật chi họa, họa trung hữu thi."
Tô Thức: "Ha ha ha! Xem ra hậu nhân rất đồng ý với quan điểm của ta."
So với hai đỉnh cao của thơ điền viên, thơ biên tái Thịnh Đường có thể gọi là trăm hoa đua nở!
Từ thời Tiên Tần đã có thơ lấy biên tái, chiến tranh làm đề tài. Đến đời Tùy, thơ biên tái bắt đầu hưng khởi. Đến đời Đường, triều đình nỗ lực khai疆拓土, kẻ sĩ cũng thích lập công ở biên cương, coi đó là một con đường tiến thân bên cạnh khoa cử. Thêm vào đó là không khí xã hội Thịnh Đường hăng hái tiến lên, thơ biên tái càng thêm phát triển!
Thuần Vu Việt: "Kinh Thi · Phong nhã có câu: Giang Hán chi trạc, vương mệnh Triệu Hổ: Thức tích tứ phương, triệt để ngã cương thổ... Tại cương tại lý, chí vu Nam Hải." Kể chuyện Chu Tuyên Vương sai Triệu Hổ đem quân chinh ph/ạt Hoài Di.
Phù Tô: "Còn có Tần Phong · Vô y, Vương Phong · Quân tử vu dịch..."
Trần Lâm: "Sinh nam thận mạc cử, sinh nữ mớm dĩ cao. Quân đ/ộc bất kiến Thành Hạ Lục, tử nhân h/ài c/ốt tương chi撐 chống." (Ẩm Mã Trường Thành quật hành)
Thái Diễm: "Ngã sinh chi sơ thượng vô vi, Ngã sinh chi hậu Hán tộ suy. Thiên bất nhân thử giáng lo/ạn ly, Nhi bất nhân thử sử ngã ngộ thời." (Hồ già thập bát phách)
Bảo Chiếu: "Thời nguy kiến thần tiết, Thế lo/ạn thức trung lương. Đầu thân báo minh chủ, Thẩm mệnh vi quốc vo/ng." (Đại xuất Tái Bắc môn hành)
Lạc Tân Vương: "Loan cung bão Hán nguyệt, Mã túc lý Hồ trần. Bất cầu sinh nhập tắc, Duy tương tử báo quân!" (Tòng quân hành)
Dương Quýnh: "Ninh vi bách phu trưởng, Thắng tác nhất thư sinh!" (Tòng quân hành)
Thơ biên tái là phần có tính tư tưởng sâu sắc nhất, giàu sức tưởng tượng và tính nghệ thuật nhất trong thơ Đường.
Lạc Tân Vương, một trong Sơ Đường tứ kiệt, là người viết nhiều thơ biên tái nhất thời Sơ Đường. Dương Quýnh, Trần Tử Ngang, Đỗ Thẩm Ngôn cũng sáng tác nhiều thơ biên tái.
Thời Thịnh Đường, đại diện tiêu biểu của thơ biên tái có Cao Th適, Sầm Tham, Vương Xươ/ng Linh...
Cao Th適, tự Đạt Phu, tổ phụ là An Đông đô hộ Cao Khản, sinh ra trong gia đình tướng门世家, từ nhỏ đã có chí lập công ở biên cương, dùng võ để lập thân!
Lý Trị: "Lại là Cao Khản, người từng bắt sống Đột Quyết Xa Tị Khả Hãn, nhiều lần theo quân thảo ph/ạt Cao Câu Ly, có công lớn trong việc ổn định biên cương, được phong làm Bình Nguyên quận khai quốc công."
Vũ Hậu: "Không ngờ hậu duệ của ông ta lại có một thi nhân."
Lý Thế Dân: "Chỉ có những người tài nhưng không gặp thời mới dùng thơ để tỏ chí. Như Trương Cửu Linh bị giáng chức mới có những áng thơ truyền đời. Trẫm mong mọi nhân tài đều được dụng尽其才."
Trưởng Tôn Hoàng Hậu: "Quốc gia bất hạnh, thi gia hạnh..."
Cao Th適 từng viết những vần thơ như: "Bắc thượng đăng Kế Bắc, Mông lung phùng sa mạc. Ỷ ki/ếm đối phong trần, Cảm động hoài Vệ Hoắc... Vạn lý bất tích tử, Nhất triêu đắc thành công. Họa đồ Kỳ Lân các, Nhập triều minh quang cung, Tiếu ngạo vị văn sĩ, Nhất hà túc cùng."
Nhưng hy vọng thì bao la, con đường phía trước lại mịt mờ...
Từ nhỏ, Cao Th適 đã gia đạo sa sút, trải qua cuộc sống nghèo khó. Nhưng nghèo mà chí không nghèo, hắn luôn ghi nhớ vinh quang tổ tông, học văn luyện võ, vô cùng khổ cực.
Năm Khai Nguyên thứ bảy, Cao Th適 hai mươi tuổi lần đầu đến Trường An: "Nhị thập giải thư ki/ếm, Tây du thành Trường An." Hắn ở lại Trường An hai năm mà không đạt được gì, chỉ có thể rời đi, đến vùng núi phía đông Hà Nam du ngoạn, vừa làm ruộng vừa học hành tự dưỡng.
Năm Khai Nguyên thứ mười tám, quyền thần Khiết Đan gi*t vua, ép bộ hạ và tộc Hề phản Đường, đầu hàng Đột Quyết. Chiến tranh giữa Đường và Khiết Đan, tộc Hề bùng n/ổ ở biên giới Đông Bắc.
Cao Th適 hơn ba mươi tuổi vẫn chưa thành danh, nghe tin này liền lên đường Bắc thượng tòng quân, năm sau đến Kế Châu.
Cuối cùng, Cao Th適 cũng đến được biên tái mà hắn hằng mong nhớ, giấc mộng lập công, tế thế an dân gần ngay trước mắt, lòng hắn vô cùng kích động, đến cả đám trẻ biên cương cũng thấy đáng yêu: "Doanh Châu thiếu niên bất phụ nông, Triêu yệp thuần bào kỵ liệp phong. Bắt tửu thiên chung bất túy khách, Hồ nhi thập tuế năng kỵ xạ."
Đây là lần đầu Cao Th適 đến biên ải xa xôi, tràn đầy tin tưởng. Hắn gửi thư cho Tín An Vương Lý 禕, xin được "Chung nhung tảo đại mạc, Nhất chiến cầm Thiền Vu."
Nhưng không được ai trọng dụng, chỉ đành mang theo thất vọng trở về cố hương.
Năm Khai Nguyên thứ hai mươi hai, Cao Th適 về đến cố hương. Một năm sau, hắn đến Trường An dự thi, nhưng không đỗ. Lần này đến Trường An, hắn quen Trương Húc, còn cùng Vương Chi Hoán, Vương Xươ/ng Linh xướng họa.
Lúc này, dù hoạn lộ không như ý, thơ văn của Cao Th適 đã được người ngâm xướng. Trường An cư, thật khó, Cao Th適 chỉ có thể về cố hương, mang theo tâm trạng buồn bã đi du lịch khắp nơi.
Năm Khai Nguyên thứ hai mươi sáu, thuộc hạ của U Châu Tiết Độ Sứ Trương Thủ Khuê giao chiến với quân phản lo/ạn Khiết Đan, nhưng vì sơ suất mà thất bại. Trương Thủ Khuê không chỉ giấu diếm sự thật thua trận, còn tâu lên triều đình xin功.
Cảm khái trước việc Trương Thủ Khuê khai man chiến công, cùng với sự mục nát trong quân đội, kết hợp với những gì mắt thấy tai nghe khi đến Kế Châu, Cao Th適 viết nên áng thơ truyền thế "Yến Ca Hành"!
Bài thơ này không chỉ là "Đệ nhất đại thiên" của Cao Th適, mà còn là tác phẩm tiêu biểu của thơ biên tái Thịnh Đường!
Tào Phi nhớ đến "Yến Ca Hành" của mình: "Thê thiếp đ/ộc thủ không phòng, Tư quân như mộng đoạn nhân trường. Bất tri hà nhật hề tương hội, Thùy khiển chinh mã hề vô lương?" Đề tài này đa phần là tư妇 hoài niệm征夫, không biết thơ biên tái của hậu nhân sẽ như thế nào.
Lý Bạch, Đỗ Phủ nhìn bạn với ánh mắt chế nhạo, Cao Th適 có chút không tự nhiên.
Lý Bạch: "Hán gia yên trần tại Đông Bắc, Hán tướng từ gia phá tặc. Nam nhi bản tự trọng hoành hành, Thiên tử vô cùng tứ nhan sắc."
烽火 bắt ng/uồn từ Đông Bắc, tướng quân奉命征伐, thiên tử ân重賞赐, tướng quân được sủng ái mà kiêu căng.
Hán Vũ Đế ch/ửi bậy: "Thi nhân đời Đường đều thích lấy Hán so Đường, nói Đường hoàng thành Hán hoàng, nói Đường tướng thành Hán tướng. Làm gì, làm thơ còn phải kiêng húy à?"
Chủ Phụ Yển nói: "Trước đời Đường, chỉ có đại Hán đáng ca tụng. Thi nhân đều thích lấy cổ phúng kim, lấy Cổ喻今, nếu như Mạnh Hạo Nhiên nói thẳng 'Bất tài minh chủ khí', chẳng phải là đoạn mất con đường làm quan sao!"
Vệ Thanh: "Song kim ph/ạt cổ phía dưới du quan, Tinh bái uốn lượn kiệt trong đ/á. Giáo úy vũ sách bay hãn hải, Thiền Vu liệp hỏa chiếu Lang Sơn."
Đại quân xuất征, tinh kỳ như mây, trống trận tề minh, trùng trùng điệp điệp, tiến đến chiến trường!
Hoắc Khứ Bệ/nh: "Sơn xuyên tiêu điều cực biên thổ, Hồ kỵ xâm lấn tạp phong vũ. Chiến sĩ quân b/án tiên tử, Mỹ nhân trướng hạ hoàn ca vũ! Đại mạc cùng thu nhét thảo phì, Cô thành lạc nhật đấu binh hiếm. Thân vi ân ngộ hằng kh/inh địch, Cật lực quan ải vị giải vi."
Tiền tuyến đang đại chiến, quân địch thế mạnh, tướng sĩ sống ch*t chưa biết, tướng lĩnh hậu phương lại hoan ca mạn vũ, vạch trần sự mục nát của tướng lĩnh quân đội.
Tào Phi: "Thiếu phụ thành nam dục đoạn肠,征人 kế bắc hoàn không囊....... Sát khí tam時作 trận vân, Hàn thanh nhất dạ truyền điêu đấu."
征夫, tư phụ hai nơi tương vọng, rốt cuộc không thể gặp lại.
Tào Phi ngạc nhiên: "Nhạc phủ thi còn có thể viết như vậy!"
Tào Tháo: "Tương khán m/a đ/ao huyết紛紛, 死節赴義豈顧훈? Quân bất kiến sa trường chinh chiến苦, Chí kim do ức Lý tướng quân!"
Các tướng sĩ sống không còn hy vọng, chỉ có thể lấy thân đền n/ợ nước, bọn họ vô cùng khát vọng gặp được Lý tướng quân, người thương lính như con, dũng cảm mưu trí.
Chương 6
Chương 7
Chương 6
Chương 7
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 8
Bình luận
Bình luận Facebook