Lý Thế Dân với tầm nhìn vượt thời đại đã thúc đẩy phát triển kinh tế. Thời kỳ Trinh Quán là một trong số ít giai đoạn trong lịch sử không kỳ thị thương nghiệp, mà còn tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho thương nghiệp phát triển. Các thành thị thương mại mọc lên như nấm, con đường tơ lụa trở thành hành lang vàng của thế giới!

Khu bình luận:

"Trong những năm Trinh Quán, triều đình còn tổ chức hội chợ để trao đổi, thu được nhiều gia súc nhằm thúc đẩy nông nghiệp."

"Dùng thương nghiệp để hỗ trợ nông nghiệp, đây chính là xu hướng phát triển phù hợp với lịch sử!"

"Đáng tiếc, ngoài Lý Thế Dân, rất ít người nhìn thấy điểm này."

Tần Thủy Hoàng do dự: "Thương nhân, thương nghiệp!"

Đại Tần không đàn áp thương nghiệp, thậm chí còn bảo vệ các thương nhân lớn hợp tác với triều đình. Tuy nhiên, với những tiểu thương đi khắp hang cùng ngõ hẻm thì lại khá hà khắc, do quy định hộ tịch của Đại Tần rất nghiêm ngặt, nhiều người cả đời không thể rời khỏi nơi sinh sống.

Tiêu Hà đề nghị: "Bệ hạ, có lẽ nên mở thêm chợ phiên để dân chúng tự do m/ua b/án hàng hóa."

Tần Thủy Hoàng suy nghĩ giây lát rồi phán: "Chuẩn, sau đó soạn thảo kế hoạch cụ thể."

"Trong xã hội quân chủ chuyên chế, kinh tế không phát triển được là do chính sách trọng nông ức thương."

"Quốc gia không buôn b/án thì không giàu!"

Hoàng đế nhà Tống tự hào: "Đại Tống của ta giàu có phồn hoa, vượt xa Đại Đường!"

Tiếc rằng, tiền mà dân Đại Tống ki/ếm được từ thương nghiệp không cải thiện đời sống, ngược lại còn trở thành quân phí cho nước địch...

"Trung Quốc tuy đất rộng nhưng dân đông, đất chia cho mỗi người không đủ duy trì no ấm. Chỉ dựa vào đất đai cằn cỗi sao có thể làm dân giàu nước mạnh?"

Quản Trọng nói: 'Thương nhân thực ra cũng biết lễ tiết, no cơm ấm áo mới biết vinh nhục.' Chỉ khi thỏa mãn nhu cầu vật chất, dân mới theo đuổi đạo đức tinh thần.

"Nhà Đường mở rộng lãnh thổ đến Trung Á (Kazakhstan ngày nay). Con đường tơ lụa khởi đầu từ nhà Hán đến lúc này mới phát huy giá trị lớn nhất!"

"Lúc đó, phân nửa thành phố thương mại nổi tiếng thế giới đều ở Trung Quốc."

"Các thành phố như Giao Châu, Quảng Châu, Hồng Châu (Nam Xươ/ng), Dương Châu, Ích Châu (Thành Đô), Lương Châu đều trở thành đô thị thương mại lớn. Trường An và Lạc Dương là những đô thị tầm cỡ thế giới!"

Lý Thế Dân lấy tư tưởng 'dân là gốc', nghiêm túc tiếp thu can gián, trọng dụng nhân tài, mở rộng ngôn luận. Chỉ cần có tài thì được đề bạt, làm việc theo pháp luật, tạo nên thời kỳ trị vì nổi tiếng nhất cổ đại - Trinh Quán chi trị!

Khu bình luận:

"Xã hội ổn định, kinh tế phồn vinh, võ công hưng thịnh!"

"Quan lại thanh liêm, luật pháp nghiêm minh, vương công quý tộc không dám làm điều phi pháp."

"Dân chúng đêm không cần đóng cửa, của rơi không nhặt, thương nhân có thể ngủ ngoài hoang dã mà không sợ cư/ớp bóc."

"Dù thiên tai liên miên, giá gạo chỉ còn ba bốn đồng một đấu - mức thấp nhất trong lịch sử!"

Thương nhân và du khách đi khắp đất nước, không cần tự mang theo lương thực, đến bất cứ đâu cũng có thể m/ua sắm tùy ý. Thậm chí nhiều làng mạc còn cung cấp đồ ăn miễn phí cho lữ khách - đây là cảnh thịnh vượng chưa từng có ở các triều đại trước!

Cuối thời Trinh Quán, dân số đã phục hồi lên 380 vạn hộ, gần gấp đôi so với 200 vạn hộ thời khai quốc!

Thời kỳ Trinh Quán chi trị đã đặt nền móng cho hơn một trăm năm thịnh trị của Đại Đường!

...

Đương nhiên, sự thịnh trị này không chỉ là công lao riêng của Lý Thế Dân. Các bề tôi thời Trinh Quán cũng là những người kiến tạo nên thời đại huy hoàng. Lý Thế Dân với tình cảm sâu sắc, rất am hiểu cách xử lý qu/an h/ệ vua tôi, không chỉ quản lý tốt triều thần mà còn giúp đa số được an hưởng tuổi già.

Năm Trinh Quán thứ 17, Lý Thế Dân tuổi cao sức yếu, bắt đầu hoài niệm về những tháng ngày xông pha chiến trận. Để tưởng nhớ những người có công khai quốc và kiến tạo Trinh Quán chi trị, ông sai Diêm Lập Bản vẽ chân dung các công thần tại Lăng Yên Các, coi đây là vinh dự tối cao cho bề tôi. Lịch sử gọi là "Nhị thập tứ công thần Lăng Yên Các"!

Triều thần Đại Đường vô cùng xúc động. Cả đời phấn đấu của họ không phải để mong lưu danh sử sách hay sao? Hoàng thượng thật sự quá hiểu lòng bề tôi!

Không ai biết mình có lọt vào top 24 vị trí trong lòng Hoàng đế không. Mỗi người đều âm thầm so đo thứ hạng, mong được xếp đầu bảng để chứng tỏ mình là đại thần được sủng ái nhất.

Lý Thế Dân tuyên bố: "Trẫm nhờ vào sự phò tá đắc lực của các khanh - những mưu sĩ trong màn trướng, dũng tướng ngoài sa trường. Nhờ lòng đồng đức hiệp lực mà Đại Đường có được thành tựu ngày nay!"

Bình luận:

- Từ đó, Lăng Yên Các trở thành biểu tượng cho hào kiệt Đại Đường!

- "Nam nhi sao không đeo ki/ếm Ngô, thu về năm mươi châu. Mời người tạm lên Lăng Yên Các, kẻ thư sinh nào xứng hầu vạn hộ?" (Lý Hạ)

- Trưởng Tôn Vô Kỵ đứng đầu công thần. Ông xuất thân hoàng tộc Bắc Ngụy, cha là danh thần Trường Tôn Thịnh thời Tùy, em gái là Trưởng Tôn hoàng hậu. Dù không tham gia chiến tranh khai quốc nhưng có công lớn trong sự biến Huyền Vũ Môn.

- Trưởng Tôn hoàng hậu hiền đức, khuyên Lý Thế Dân đừng trọng dụng ngoại thích như nhà Hán. Trưởng Tôn Vô Kỵ cũng khéo léo tránh hiềm nghi, đến năm Trinh Quán 22 mới nhận chức Tể tướng khi Phòng Huyền Linh lâm bệ/nh.

Lý Thế Dân luôn tín nhiệm anh vợ: "Phụ Cơ giỏi tránh hiềm nghi, quyết đoán có lý, người xưa cũng không bằng!"

Triều thần không phản đối vị trí của Trưởng Tôn Vô Kỵ, vì ông vừa có công khai quốc, vừa là huynh trưởng của Hoàng hậu.

Ba hàng đầu trong điện Thái Cực đều là những bề tôi chính trực, khí khái và kiên trung. Những hàng phía sau hoàn toàn không thể so sánh với Trưởng Tôn Vô Kỵ.

Xếp thứ hai là Lý Hiếu Cung, cháu họ của Lý Uyên, vừa là tôn thất vừa là công thần. Ông có công diệt Tiêu Tiển, dẹp Ba Thục, trấn áp Phụ Công Thạch, bình định Giang Nam.

Nhưng trong biến cố Huyền Vũ Môn, ông giữ thái độ trung lập nên đ/á/nh mất lòng tin của Lý Thế Dân. Dần dần, ông bị đẩy ra khỏi trung tâm quyền lực trong triều Trinh Quán. Tuổi già sống ẩn dật với nghệ thuật, đến năm Trinh Quán thứ mười bốn thì qu/a đ/ời vì bạo bệ/nh!

Quần thần: Tốt lắm! Đây là tôn thất nhà Đường, cùng chung tằng tổ với Thái Tông bệ hạ. Không thể so sánh được!

Riêng Lý Hiếu Cung lòng đầy phức tạp. Vì không ủng hộ Lý Thế Dân, ông bị gạt ra ngoài lề, trên triều chỉ như vật trang trí. Không ngờ trăm năm sau lại được vinh danh thế này... Đời này thật đáng giá!

Xếp thứ ba là Đỗ Như Hối. Ông nội và cha đều làm quan lớn thời Tùy, xuất thân hiển hách, học rộng tài cao. Ông cũng là một trong những mưu sĩ đầu tiên theo phò Lý Thế Dân, được trọng dụng.

Đáng tiếc, ông qu/a đ/ời quá sớm vào năm Trinh Quán thứ tư.

Nghe tin về cái ch*t của mình, Đỗ Như Hối năm Trinh Quán thứ ba không khỏi bàng hoàng. Lý Thế Dân lập tức sai thái y đến chẩn trị, nhưng y thuật còn hạn chế, không chữa khỏi. Vua đành hạ chiếu tìm Tôn Tư Mạc gấp.

Ngụy Chinh xếp thứ tư. Xuất thân nghèo khó, từng gia nhập Ngõa Cương trại, phục vụ dưới trướng Đậu Kiến Đức, rồi làm người chăm ngựa cho phế Thái tử Lý Kiến Thành. Nhưng điều đó không ngăn Lý Thế Dân trọng dụng ông.

Ngụy Chinh thời Trinh Quán còn bình tĩnh, nhưng Ngụy Chinh thời niên hiệu Võ Đức lại thấy ngượng ngùng - dù ông chưa từng phản bội chủ nào...

Sau khi Ngụy Chinh mất, Lý Thế Dân đ/au buồn nói đã mất đi "tấm gương phản chiếu lỗi lầm", còn làm thơ tưởng niệm.

Vinh dự này khiến nhiều kẻ gh/en gh/ét. Nhân việc Đỗ Chính Luân (do Ngụy Chinh tiến cử) và Hầu Quân Tập mưu phản bị gi*t, họ vu cáo Ngụy Chinh kết bè phái, còn nói ông tự tiết lộ những lời khuyên can vua cho sử quan. Thái Tông tin lời, nổi gi/ận, hủy bia m/ộ ông.

Xin chú ý: Lý Thế Dân hủy bia do chính tay ông viết - một vinh dự đặc biệt, không phải là bia m/ộ của Ngụy Chinh!

Sau này, Thái Tông thân chinh Cao Câu Ly thất bại nặng nề. Hối h/ận vì không nghe lời khuyên, nhà vua nhớ tiếc Ngụy Chinh - vị quan dám nói thẳng - bèn cho dựng lại bia m/ộ!

Lý Thế Dân méo mặt: Chẳng lẽ lúc già ta lại hồ đồ đến thế?

Ngụy Chinh vội khuyên ngay: "Bệ hạ, thần đức mỏng tài thấp, không xứng được khắc bia. Chỉ mong bệ hạ đừng kiêu ngạo, đừng quên sơ tâm khai sáng thịnh thế!"

Lý Thế Dân đành đáp: "Trẫm biết rồi, đều nghe lời Huyền Thành (tên tự của Ngụy Chinh)."

Phòng Huyền Linh xếp ở vị trí thứ năm, ông là danh tướng nhà Đường, cùng với Đỗ Như Hối được hợp xưng là "Phòng mưu Đỗ quyết". Năm 18 tuổi, ông đã đậu Tiến sĩ dưới triều Tùy, sau đó theo phò tá Lý Thế Dân và trở thành mưu thần quan trọng trong giai đoạn đầu của vị này.

Trong sự kiện Huyền Vũ Môn, Phòng Huyền Linh đã tham gia cùng với Trưởng Tôn Vô Kỵ, Đỗ Như Hối và những người khác, được xếp vào hàng công thần đứng đầu. Trong suốt thời Trinh Quán, ông luôn giữ chức Tể tướng, là trợ thủ đắc lực của Lý Thế Dân. Có thể nói, thành tựu "Trinh Quán chi trị" phần lớn nhờ công lao của ông.

Lý Thế Dân từng nhận xét: "Phòng Huyền Linh giỏi mưu lược nhưng thiếu quyết đoán, Đỗ Như Hối quyết đoán nhưng lại không giỏi mưu lược".

Có người thắc mắc: "Tại sao trong cụm từ 'Phòng mưu Đỗ quyết' lại xếp Phòng Huyền Linh trước, Đỗ Như Hối sau?"

Câu hỏi này khiến những người xếp trên Phòng Huyền Linh hơi ngượng ngùng, bởi thực chất ông mới là công thần số một thời Trinh Quán!

Nguyên nhân là do thứ hạng trong Lăng Yên Các nhị thập tứ công thần không dựa trên công lao, mà được Đường Thái Tông sắp xếp vào năm Trinh Quán thứ 17 dựa theo chức tước cao nhất của mỗi người khi đương chức hoặc được truy tặng sau khi qu/a đ/ời.

Những người đã mất đều được truy phong chức tước cao hơn chức vụ thực tế lúc sinh thời. Trưởng Tôn Vô Kỵ được phong Tư Đồ (chức cao nhất), Phòng Huyền Linh là Tư Không. Nhưng Lý Hiếu Cung, Đỗ Như Hối, Ngụy Chinh sau khi mất cũng được truy tặng Tư Không. Theo nguyên tắc "người mất được tôn trọng", Phòng Huyền Linh phải xếp sau ba vị này.

Một ví dụ khác là Lý Tĩnh mất vào năm Trinh Quán thứ 23, do qu/a đ/ời muộn nên không kịp được truy tặng chức tước, vì thế chỉ xếp thứ tám!

Lý Tĩnh nghe xong cảm thán: "Hóa ra ch*t sớm lại có lợi thế!"

Mọi người nghe giải thích đều bừng tỉnh ngộ.

Vị trí thứ sáu thuộc về Cao Sĩ Liêm - cậu ruột của Trưởng Tôn hoàng hậu. Bà mồ côi cha từ nhỏ, được Cao Sĩ Liêm nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

Lý Thế Dân đ/á/nh giá: "Cao Sĩ Liêm thông hiểu cổ kim, giữ vững khí tiết trước nghịch cảnh, làm quan không kết bè phái, chỉ có điều không quen can gián trực tiếp".

Vị trí thứ bảy là Uất Trì Kính Đức. Ông nhiều lần theo Lý Thế Dân xông pha trận mạc, từng ch/ém ch*t Lý Nguyên Cát trong sự biến Huyền Vũ Môn. Sau khi thiên hạ thái bình, ông lui về ở ẩn, quanh năm đóng cửa tu luyện đan dược.

Uất Trì Kính Đức tự trách: "Già rồi mà lại chọn cách khóa mình trong nhà luyện đan!"

Những người khác nhìn vào thì hiểu: Vị võ tướng thuần túy duy nhất trong Lăng Yên Các quả nhiên càng gần vị trí lãnh đạo thì càng được lưu tâm...

Danh sách chương

5 chương
21/10/2025 16:20
0
21/10/2025 16:20
0
28/11/2025 08:30
0
28/11/2025 08:23
0
28/11/2025 08:15
0

Có thể bạn quan tâm

Bình luận

Bình luận Facebook

Đăng nhập
Tài khoản của bạn bị hạn chế bình luận
Hủy
Xem thêm bình luận

Đọc tiếp

Đăng nhập để đồng bộ lịch sử trên nhiều thiết bị

Bảng xếp hạng

Top ngày

Bình luận
Báo chương xấu