Từ chế độ hương cử thời Chu, chế độ thế khanh thế lộc thời Tiên Tần, đến chế độ tước vị quân công thời Tần, rồi chế độ sát cử thời Hán Vũ Đế, chế độ cửu phẩm trung chính do Tào Phi thiết lập... Chế độ tuyển quan cổ đại Trung Quốc không ngừng cải cách sáng tạo, cuối cùng đã tiến tới chế độ khoa cử thông qua thi cử để chọn nhân tài!

Tần Thủy Hoàng: "Khoa cử chế, đây chính là quy chế tuyển chọn của hậu thế!"

Hán Vũ Đế trầm ngâm: "Lấy thi cử làm chuẩn mực, quả thực công bằng."

Lưu Tú thắc mắc: "Nhà Hán đã thực hiện chế độ sát cử phân khoa, thi cử tiến cử, đối sách, thí kinh đều tương tự khoa cử. Sao lại nói nhà Tùy khai sáng khoa cử?"

Hán Thuận Đế Lưu Bảo phản đối: "Chấm điểm thi cử rõ ràng do trẫm khởi xướng, sao không nhắc tới trẫm?"

...

Thi cử thời Đông Hán chỉ là bộ phận của chế độ sát cử, không có quyền loại bỏ người được tiến cử nên mất đi tính khách quan. Hơn nữa, sát cử không phải con đường chính để tuyển quan, phần lớn quan lại nhờ thế tập công lao hoặc xuất thân đại tộc. Do đó, những trường hợp như Vệ Thanh, Tang Hoằng Dương mới được truyền tụng suốt hai ngàn năm!

Tào Phi nhận xét: "Cửu phẩm trung chính đã sai lệch mục đích ban đầu, nên bị bãi bỏ."

Thực tế chứng minh, trao quyền tuyển quan cho đại thần không thể thu hút nhân tài. Thời Nam triều, nước Tề từng quy định loại bỏ thí sinh thi không đạt trong chế độ cửu phẩm. Nam Lương lập Ngũ Kinh quán cho sĩ tử hàn môn dự thi, bất kể xuất thân. Bắc Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu cũng có quy định tương tự, đảm bảo tính công bằng.

Khu bình luận:

"Khoa cử thời Tùy chỉ là hình thức sơ khai, cần quan ngũ phẩm tiến cử mới được dự thi. Đến thời Đường mới cho phép tự do ứng thí. Nhà Tùy chưa có khoa Tiến sĩ, chỉ là phiên bản cải tiến của sát cử."

"Tùy Văn Đế và Tùy Dạng Đế đều đố kỵ nhân tài. Tùy Văn Đế bỏ trường học trung ương và địa phương. Tùy Dạng Đế gi*t Tiết Đạo Hành vì gh/en gh/ét tài năng. Khoa cử thời Tùy khó có thể tuyển chọn được nhân tài thực thụ."

"Vì vậy, đừng gán ghép công lao khai sáng khoa cử cho Tùy Dạng Đế."

"Có thể nói khoa cử manh nha thời Nam Bắc triều, hoàn thiện thời Đường!"

...

Dương Kiên quyết định: "Danh hiệu khai sáng khoa cử vốn không đáng quan tâm, nhưng nhiều người tranh giành thì trẫm cũng phải nhận! Chẳng qua là phân khoa thi tuyển, không hạn chế thí sinh - trẫm cũng làm được!"

[Năm Khai Hoàng thứ hai, Dương Kiên lấy lý do "Trường An cũ kỹ" để xây Đại Hưng Thành ở phía đông nam. Đây trở thành trung tâm chính trị và thương mại lớn nhất thời Tùy - Đường.]

Khu bình luận:

“Đại Hưng Thành chính là thành Trường An của nhà Đường!”

“Trường An nguyên bản có cung điện nhỏ hẹp, đổ nát vô cùng, lại thêm làm kinh đô mấy trăm năm, nước trong hào thành đục ngầu. Ng/uồn nước sạch cực kỳ thiếu thốn, không còn đáng dùng nữa.”

Lưu Bang cười nhạo: “Ha! Chiếm giang sơn nhà Hán, dùng đô thành nhà Hán, còn lắm lời thế!”

“Đại Hưng Thành có địa thế cực kỳ khéo léo, với 6 tầng dốc. Nhà thiết kế Vũ Văn Khải đặt hoàng cung ở nơi cao nhất, tiếp đến là các công thự và chùa miếu, khu dân cư thì ở chỗ thấp nhất.”

Trên màn hình hiện ra bản vẽ Đại Hưng Thành đối xứng hoàn hảo, đường nét ngay ngắn, quy hoạch rõ ràng khiến ai cũng phải trầm trồ.

Võ Đế Lưu Triệt tỏ ý muốn xây thành tương tự, nhưng Tang Hoằng Dương nhắm mắt can ngăn: “Không có tiền!”

Lưu Trư (Hán Huệ Đế): ???

Tần Thủy Hoàng lại quan tâm đến tính an toàn của quy hoạch này - việc tách biệt hoàng cung, hoàng thành và khu dân cư vừa an ninh lại thiết thực.

Hàm Dương cung không còn đáp ứng nhu cầu của đế quốc thống nhất. Khi chọn kinh đô mới, Đại Hưng Thành thời Tùy chính là câu trả lời sẵn có!

【Để giải quyết tình trạng hộ tịch mơ hồ và thu thuế bất ổn do chiến tranh, Dương Kiên ra lệnh điều tra dân số toàn quốc. Kết quả phát hiện 165 vạn dân không hộ tịch và 44 vạn tráng đinh bị hào cường chiếm giữ, qua đó giải phóng nhân lực cho quốc gia, chấm dứt tệ nạn ẩn lậu dân đinh kéo dài từ thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều.】

【Nhà Tùy kế thừa chế độ quân điền từ Bắc Ngụy, phân phối lại ruộng đất bị chiến tranh tàn phá, giảm nhẹ thuế dịch để dân chúng an cư. Lập Thường Bình Thàng dự trữ lương thực Quan Đông, đào kênh dẫn nước từ Vị Thủy tới Đồng Quan, thông suốt đường thủy nội địa.】

【Lại còn xây kho lương dân gian, thu m/ua khi được mùa, phát chẩn khi mất mùa!】

Phù Tô: “Thường Bình Thương và kho lương thật tuyệt!”

Nhớ ghi chép lại để áp dụng!

Khu bình luận:

“Năm Trinh Quán thứ 11, Giám sát Ngự sử Mã Chu tấu: Lương thực dự trữ từ thời Tùy đến nay vẫn chưa dùng hết.”

“Lúc đó đã cách khi nhà Tùy diệt vo/ng 20 năm, mà Tùy Văn Đế cũng qu/a đ/ời 33 năm rồi!”

“Năm 1969, phát hiện di chỉ kho lúa nhà Tùy ở Lạc Dương với 259 hầm chứa, trong đó còn 50 vạn cân thóc đã hóa than - đủ thấy sự phồn thịnh thuở ấy!”

......

Mã Chu: “Ý thần là Tùy Văn Đế tích trữ nhiều kho lương thế mà keo kiệt không chịu phát chẩn khi thiên tai, mới khiến nhà Tùy diệt vo/ng, chứ đâu phải ca ngợi đâu!”

Dương Kiên: “Các người nhà Đường đừng thái quá! Lương thực gì mà tích trữ được 30 năm chứ!”

Lý Thế Dân: “Lương thực nhà Tùy đương nhiên không để lâu thế, nhưng nếu luân chuyển lương mới vào - lương cũ ra, thì vẫn dùng được hoài. Hiếm khi thấy phụ hoàng nói sai đấy!”

Dương Kiên: Tốt lắm!

【Dương Kiên sai Tô Uy soạn 《Khai Hoàng Luật》, thiết lập pháp luật quốc gia để quan dân tuân theo, giảm nhẹ hình ph/ạt, thực thi chính sách nhân từ - đây chính là điểm khác biệt giữa nhà Tùy và Bắc Chu.】

Khu bình luận:

"Luật pháp Bắc Chu cực kỳ t/àn b/ạo và hỗn lo/ạn, là bước thụt lùi của lịch sử."

"Khai Hoàng Luật đã bãi bỏ các hình ph/ạt như cung hình, x/é x/á/c bằng năm ngựa, treo đầu... đồng thời giảm 81 tội t//ử h/ình, từ góc độ pháp lý bãi bỏ hình ph/ạt diệt tộc."

"Lấy hình nhẹ thay hình nặng, biến án tử thành án sống!"

"Khai Hoàng Luật chia hình ph/ạt thành năm loại: tử, lưu, đồ, trượng, quất - đây cũng là những hình ph/ạt thường thấy trong các bộ phim."

"Quy định phúc tấu án t//ử h/ình cũng được thiết lập vào giữa niên hiệu Khai Hoàng - mọi bản án t//ử h/ình đều phải qua Đại Lý Tự thẩm duyệt, không được tự ý xử tử."

"Khai Hoàng Luật hoàn thành công cuộc cải cách luật pháp khởi đầu từ Hán Văn Đế, sau này được nhà Đường kế thừa toàn bộ."

Hán Văn Đế thở dài: "Trẫm chỉ bãi bỏ nhục hình, vẫn còn kém xa sự nhân từ của Khai Hoàng Luật."

Là đối tượng bị phê phán, Tần Thủy Hoàng buộc phải suy xét tính hợp lý của Tần Luật.

May mắn Thủy Hoàng có trợ thủ đắc lực: "Lý Tư, việc cải cách pháp luật thế nào rồi?"

Lý Tư vội đáp: "Tâu bệ hạ, việc sửa đổi pháp lệnh sắp hoàn tất." (Ý muốn nói: Muốn sửa thế nào, sửa đến đâu đều do bệ hạ quyết định!)

[Xét thấy chế độ tiền tệ trước đây hỗn lo/ạn, Tùy Văn Đế đúc tiền Ngũ Th/ù tiêu chuẩn, thống nhất tiền tệ và đơn vị đo lường, mở lại chợ rư/ợu và mỏ muối, thúc đẩy thương mại phát triển.]

Thủy Hoàng nhận xét: "Mối qu/an h/ệ giữa nhà Tùy và nhà Đường giống như Đại Tần với nhà Hán!"

Đều là kết thúc thời lo/ạn lạc để làm bàn đạp cho vương triều hưng thịnh tiếp theo...

[Những cải cách này đạt thành tựu đáng kể. Năm Khai Hoàng đầu tiên, cả nước chỉ có 4,62 triệu hộ. Đến năm Đại Nghiệp thứ 5 đời Tùy Dạng Đế, nhân khẩu đạt 8,9 triệu hộ với 46 triệu người!]

Trong xã hội phong kiến, nhân khẩu đại diện cho thực lực quốc gia!

Tần Thủy Hoàng kinh ngạc: "Nhân khẩu tăng gấp đôi? Làm sao hắn làm được?"

Nhà Tần sau khi thống nhất chỉ có hơn 20 triệu dân.

Hán Võ Đế Lưu Triệt thèm muốn: "Nhân lực dồi dào thế này việc gì chẳng làm nổi! Chỉ cần hoàng đế không phải kẻ hôn quân vô đạo là có thể gây dựng cơ đồ!"

Nhà Tây Hán mới dựng chỉ có 13 triệu dân. Đến thời Võ Đế mới đạt hơn 30 triệu. Phải qua thời Trung Hưng, dân số mới lên 50 triệu!

Tùy Văn Đế một mình vươn lên ngang tầm với công lao mấy đời vua nhà Hán - sao không khiến người gh/en tị?

[Bên trong ổn định nhưng nhà Tùy phải đối mặt mối đe dọa lớn từ phương Bắc: Đột Quyết!]

[Đột Quyết vốn là nô lệ rèn sắt của Nhu Nhiên, nổi lên từ chân núi phía nam dãy Altai từ thời Bắc Ngụy. Năm 552, họ lật đổ ách thống trị của Nhu Nhiên, tiêu diệt chủ cũ để trở thành bá chủ mới của thảo nguyên phương Bắc!]

Khu bình luận:

"Người Đột Quyết nguyên là chủng tộc da trắng, sau này dung hợp với người Thiết Lặc để trở thành chủng tộc hỗn hợp vàng-trắng."

"Đột Quyết có chữ viết riêng - chữ Yenisei (hay còn gọi là chữ Hột ngột mông), là hệ chữ cổ nhất của các dân tộc phương Bắc thời cổ đại!"

Chiến tranh giữa nhà Tùy và Đột Quyết bắt đầu từ năm 581 khi nhà Tùy được thành lập, kéo dài đến năm 607 khi Đột Quyết phân chia thành Đông và Tây Đột Quyết, lần lượt thần phục nhà Tùy, tổng cộng 26 năm.

Năm 581, sau khi nhà Tùy thành lập, Dương Kiên ngừng triều cống cho Đột Quyết. Các bộ tộc Đột Quyết vốn không phục nhà Tùy, lại thêm công chúa Bắc Chu (đã hòa thân với Đột Quyết) không cam tâm bị Dương Kiên soán ngôi nên liên tục xúi giục. Nhân cơ hội nhà Tùy non trẻ, Đột Quyết đem quân xâm lược biên giới.

Bình luận:

- Thời Bắc Chu và Bắc Tề cùng tồn tại, cả hai đều hòa thân và triều cống cho Đột Quyết để được ủng hộ tiêu diệt đối phương. Đột Quyết thu được nhiều lợi lộc từ việc này.

- Dân tộc du mục Đột Quyết mở rộng thế lực sang phía Tây, vươn tới Tân Cương và Trung Á, xung đột với Ba Tư rồi liên minh với Đông La Mã chống lại đế quốc Sassanid.

- Lãnh thổ quá rộng khiến Đột Quyết phải lập Tiểu Khả Hãn quản lý vùng phía Tây dãy Altai, tạo mầm mống chia rẽ.

- Khi Bắc Chu diệt vo/ng, Đột Quyết cũng nội lo/ạn. Đại Khả Hãn Sa Bát Lược chia quyền lực thành bốn Khả Hãn cùng trị vì.

- Đột Quyết liên kết với thừa tướng Bắc Chu cũ là Cao Bảo Ninh tấn công nhà Tùy. Dương Kiên điều quân phòng thủ, xây dựng Trường Thành.

- Sa Bát Lược dẫn 10 vạn quân Đột Quyết đ/á/nh nhau với 3.000 quân Tùy ở Tương Thủy. Sau ba ngày kịch chiến 14 trận, quân Tùy dùng hết vũ khí phải đ/á/nh tay không. Trận này gi*t hơn một vạn quân Đột Quyết nhưng quân Tùy tổn thất 70-80%.

- Quân Tùy ở Tây Bắc đ/á/nh bại địch tại Lan Châu, nhưng phòng tuyến Lâm Thao thất thủ khiến Cam Túc, Thiểm Tây bị cư/ớp phá.

Danh sách chương

5 chương
21/10/2025 16:28
0
21/10/2025 16:28
0
27/11/2025 09:05
0
27/11/2025 08:58
0
27/11/2025 08:53
0

Có thể bạn quan tâm

Bình luận

Bình luận Facebook

Đăng nhập
Tài khoản của bạn bị hạn chế bình luận
Hủy
Xem thêm bình luận

Đọc tiếp

Đăng nhập để đồng bộ lịch sử trên nhiều thiết bị

Bảng xếp hạng

Top ngày

Bình luận
Báo chương xấu