Thể loại
Đóng
123
@456
Đăng xuất
Năm 281 TCN, năm thứ 26 đời Tần Chiêu Tương Vương, Sở Khoảnh Tương Vương cùng các nước chư hầu hợp lực muốn đ/á/nh nước Tần, nhân cơ hội đó mưu đồ Đông Chu. Nước Tần nhận được tin, quyết định ra tay trước. Năm sau, đại tướng nước Tần là Ti Mã Thác dẫn quân từ quận Lũng Tây xuất phát, chiếm vùng Kiềm Trung của nước Sở. Sở Tương Vương buộc phải c/ắt đất Thượng Dung và vùng phía bắc sông Hán cho nước Tần.
“Nước Sở mưu đồ chẳng thành lại mất cả chì lẫn chài.”
Năm 279 TCN, năm thứ 28 đời Chiêu Tương Vương, danh tướng nước Tần là Bạch Khởi dẫn quân đ/á/nh Sở. Quân Tần tiến sâu vào lãnh thổ nước Sở, nhắm thẳng vào trung tâm cai trị. Bạch Khởi men theo sông Hán tiến về phía đông, cư/ớp lương thực dọc đường. Sau khi qua sông, ông cho phá cầu, đ/ốt thuyền, đẩy quân vào thế tử chiến.
Khu bình luận:
“Phá nồi chìm thuyền!”
“Hóa ra Hạng Vũ không phải người đầu tiên làm thế.”
“Bạch Khởi phá nồi chìm thuyền diệt Sở, Hạng Vũ phá nồi chìm thuyền diệt Tần - lịch sử đúng là một vòng tuần hoàn.”
Hạng Vũ: ......
Để không quên mối h/ận mất nước, người chú đã lấy trận đại chiến Tần-Sở làm câu chuyện vỡ lòng cho nam nhi họ Hạng. Hạng Vũ thuộc nằm lòng chuyện này.
Quân Sở chiến đấu trên quê hương nhưng lo nghĩ đến gia đình, thiếu quyết tâm nên liên tục thua trận. Quân Tần tiến thẳng đến Yên Thành - trấn quân sự trọng yếu bảo vệ kinh đô Dĩnh của nước Sở. Người Sở tập trung trọng binh ở đây nhằm chặn đ/á/nh quân Tần.
Quân Tần vấp phải kháng cự á/c liệt nhất từ khi vào Sở, nhiều lần tấn công không thành. Do quân Tần tiến sâu một mình không thể kéo dài, Bạch Khởi quyết định dùng nước sông. Ông cho đắp đ/ập chứa nước phía tây Yên Thành, đào mương dẫn nước thẳng vào thành. Nước sông tràn vào phía đông bắc thành khiến hàng chục vạn dân ch*t đuối.
Khu bình luận:
“Quan Vũ dìm nước bảy quân!”
“Vương Bí dìm nước Đại Lương!”
“Con mương này đến nay vẫn còn ở gần Nghi Thành, tưới tiêu cho ngàn mẫu ruộng.”
Hồ Tằng: “Vũ An (Bạch Khởi) nam chinh ép quân Tần, công lao sánh ngang Hạ Vũ. Ai ngờ ngàn năm sau, dòng nước vẫn chảy về Nghi Thành.”
Năm sau, Bạch Khởi lại đ/á/nh Sở, chiếm kinh đô Dĩnh, đ/ốt tông miếu và lăng m/ộ nước Sở. Trận này nước Tần thu được nhiều đất đai, buộc Sở phải dời đô, suy yếu nghiêm trọng. Bạch Khởi được phong Vũ An Quân, sử gọi là Yên Dĩnh chi chiến.
Trong nỗi đ/au tuyệt vọng, Khuất Nguyên gieo mình xuống sông Mịch La t/ự v*n. Ông là nhà thơ yêu nước vĩ đại, người đặt nền móng cho chủ nghĩa lãng mạn Trung Hoa. Ông dùng mạng sống thực hiện lời thề, cùng nước mẹ sống ch*t.
Khuất Nguyên: Nước Sở diệt vo/ng!
Dù nước Sở còn tồn tại thêm vài chục năm, nhưng với Khuất Nguyên, khi tông miếu kinh đô rơi vào tay giặc thì nước Sở đã mất. Hiện ông đang đi sứ nước Tề, ghi lại tin tức từ màn trời, chờ trở về can gián vua Sở.
Quân thần nước Sở lặng thinh, trong lòng yếu mềm chỉ muốn tự vệ. Nhưng nếu tông miếu xã tắc bị hủy, nhà mình còn sống sao?
Tống Ngọc: “Tấm lòng quân tử thay! Không vướng bệ/nh thế nhân, biết thời cơ mà hành động. Gặp việc thì ứng phó, không mưu cầu riêng, không tích oán.”
Hàn, Ngụy đã đầu hàng, Tề bị đ/á/nh tàn phế, Sở phải dời đô. Lúc này, nước Triệu đang làm gì?
Khu bình luận:
“Đến lượt nước Triệu rồi!”
Nước Triệu và nước Tần vốn cùng chung tổ tiên, chỉ khác nhau về môi trường sống nên hình thành tập tục chính trị khác biệt.
Khi Tần Chiêu Tương Vương lên ngôi, vua nước Triệu là Triệu Vũ Linh Vương. Việc Tần Chiêu Tương Vương có thể từ nước Yên trở về nước Tần thuận lợi kế thừa ngai vàng cũng nhờ công lao thúc đẩy của Triệu Vũ Linh Vương. Muốn thay đổi tình thế nước Triệu bị bao vây hai mặt, ông ta muốn giao hảo với nước Tần, ủng hộ một vị quân chủ thân Triệu. Nhưng ông không ngờ rằng nhân vật Doanh Tắc - người nhờ sức mạnh của ông mà trở về nước Tần - lại có thể trưởng thành đến mức độ như vậy.
Triệu Vũ Linh Vương tự tay nuôi dưỡng một Đại M/a Vương.
Vị Đại M/a Vương đó sau này đ/á/nh bại nước Triệu, tiêu diệt 40 vạn đại quân của Triệu.
Triệu Vũ Linh Vương:......
Ta thật hối h/ận!
Khi mới lên ngôi, Triệu Vũ Linh Vương thường xuyên bị các nước chư hầu xung quanh và các dân tộc du mục đe dọa. Ông quyết chí tự cường, khởi xướng cải cách trang phục kỵ binh, huấn luyện kỵ binh, tiêu diệt nước Trung Sơn. Trong thời gian tại vị, ông chinh phục vùng Bắc Cương, thu phục Lâm Hồ, đ/á/nh bại hai tộc Lâu Phiền, mở mang ba quận Vân Trung, Nhạn Môn và Đại Quận. Ông cho xây Vạn Lý Trường Thành của Triệu dưới chân Âm Sơn, mở rộng lãnh thổ ngàn dặm, khiến sức mạnh nước Triệu vang dội, trở thành cường quốc ngang hàng với Tần.
Năm 299 TCN, Triệu Vũ Linh Vương nhường ngôi cho con thứ là Triệu Hà để xử lý việc nước, còn mình xưng là Chủ Phụ, chuyên tâm lo việc quân sự đối ngoại. Ông mong muốn thực hiện chí hướng: "Thân chinh vùng Tây Bắc, huấn luyện tướng sĩ, từ Vân Trung và Cửu Nguyên thẳng tiến xuống phía nam đ/á/nh Tần".
Tuy nhiên, việc này gây ra nội lo/ạn ở nước Triệu. Việc nhường ngôi cho con thứ khiến con trưởng là Triệu Chương bất mãn. Triệu Vũ Linh Vương cảm thấy có lỗi với con trai lớn, bèn định chia đôi nước Triệu để cả hai con cùng xưng vương.
Tại hành cung Sa Khâu, Triệu Chương mưu phản nhưng bị Triệu Huệ Văn Vương gi*t ch*t. Sau đó, Triệu Huệ Văn Vương giam cha mình trong cung ba tháng, để ông ch*t đói, thể hiện rõ bản chất một vị quân chủ quyết đoán.
Triệu Vũ Linh Vương chấn động tâm can. Hóa ra lo/ạn Sa Khâu là như vậy, ông bị chính con trai bỏ đói đến ch*t.
Triệu Hà - chưa lên ngôi - quỳ sụp xuống đất. Triệu Chương trong lòng mừng thầm nhưng bề ngoài vẫn cung kính cúi đầu nhận tội.
Triệu Vũ Linh Vương nhìn các con với ánh mắt khác lạ. Ông đã gây nghiệp chướng gì mà con trưởng mưu phản, con thứ gi*t cha? Đất nước rộng lớn này biết giao cho ai đây?
Tần Thủy Hoàng nói với Phù Tô: "Ng/uồn gốc lo/ạn lạc của nước Triệu chính là vấn đề người kế vệ."
Lữ Trĩ liếc nhìn Lưu Bang. Lưu Bang thầm lo lắng, ông cũng đang phân vân giữa con trưởng và con út được sủng ái.
May mắn là ông còn chút dè dặt, chưa thẳng tay phế trưởng lập ấu, nếu không đại Hán vừa dựng đã sụp đổ vì tranh giành ngôi vị.
Lý Uyên nghiêng lòng về một phía. Từ xưa đã có chế độ trưởng tử kế vị, dù con thứ lập công lớn nhưng phế trưởng lập ấu là ng/uồn gốc của lo/ạn lạc. Trẫm không thể đi vào vết xe đổ của Triệu Vũ Linh Vương.
Chỉ có Chu Nguyên Chương có thể chế giễu họ: Thái tử là gốc rễ quốc gia, là cha phải bảo vệ để con kế thừa ngai vàng suôn sẻ!
Vẫn phải hỏi màn trời: Dòng dõi thái tử gặp vấn đề gì mà ngôi vị lại rơi vào tay Lão Tứ?
Tần Chiêu Tương Vương muốn đ/á/nh nước Triệu nhưng không đoán được tính cách và năng lực của Triệu Huệ Văn Vương. Ông nghĩ ra cách thử thách.
Năm thứ 24 đời Chiêu Tương Vương, Doanh Tắc đòi nước Triệu viên ngọc Hòa Thị Bích, tuyên bố đổi lấy 15 tòa thành. Triệu Huệ Văn Vương sợ nước Tần, không dám trả lời.
Lúc này, Lạn Tương Như - một môn khách của nước Triệu - đứng ra nói: "Nước Tần mạnh, nước Triệu yếu, chúng ta không thể cự tuyệt yêu cầu của họ."
Triệu Huệ Văn Vương hỏi lại: "Nếu nước Tần lấy được ngọc Hòa Thị mà không giao thành trì cho chúng ta, thì phải làm sao?" Dù sao, nước Sở đã từng bị lừa gạt, Sở Hoài Vương ch*t nơi đất khách, h/ài c/ốt chưa kịp lạnh. Nước Tần và nước Sở hôm nay kết minh, ngày mai đã khai chiến, ai còn dám tin lời Tần Chiêu Tương Vương?
Tần Chiêu Tương Vương đáp một cách bất đắc dĩ: "Trẫm đối với các khanh vẫn giữ lời hứa, huống chi nước Sở là địch quốc, sao phải kiêng nể!"
Phạm Tuy chắp tay tán thưởng: "Đại vương anh minh!"
Lạn Tương Như phân tích: "Nước Tần đã đưa ra yêu cầu, nếu chúng ta không đáp ứng, là nước Triệu sai. Nhưng nếu họ nhận ngọc bích mà không giao thành, thì nước Tần mới là kẻ sai trái. Nếu Tần vương giao thành, ta sẽ để ngọc bích ở lại. Nếu họ tráo trở, ta sẽ đem bích về nguyên vẹn."
Thế là Lạn Tương Như cầm ngọc Hòa Thị đi sứ nước Tần. Thấy nước Tần không có thành ý, ông đã chỉ trích sự bạo ngược của họ và đem ngọc bích nguyên vẹn về nước. Đó chính là câu chuyện "Hoàn bích quy Triệu" nổi tiếng.
Triệu Huệ Văn Vương sai người mang ngọc bích ra cho quần thần chiêm ngưỡng: "Vật này có thể trở về, công lao thuộc về tất cả mọi người." Nhưng Lạn Tương Như vẫn lo lắng - sức mạnh của Tần và sự yếu thế của Triệu là sự thật không thể chối cãi.
Tần Chiêu Tương Vương mỉm cười đắc ý. Nước Triệu tuy giữ được ngọc bích, nhưng qua thái độ của Triệu Vương và lời lẽ của Lạn Tương Như, ông đã thấu rõ bản chất hèn nhát của họ.
Bình luận:
"Xem ra Lạn Tương Như không chỉ dũng cảm mà còn rất mưu trí."
"Nhưng rốt cuộc Tần vương vẫn là kẻ x/ấu trong câu chuyện này."
"Sử sách thường mang góc nhìn chủ quan. Hậu thế chỉ qua một vài ghi chép, khó lòng thấy được toàn cảnh."
Năm thứ 28 triều Chiêu Tương Vương, nước Tần lại thăm dò. Tần vương sai sứ giả mời Triệu Huệ Văn Vương hội đàm tại thành Tây Hà. Triệu Vương sợ hãi không dám đi. Liêm Pha và Lạn Tương Như khuyên: "Nếu bệ hạ không đi, sẽ tỏ ra nước Triệu yếu hèn." Triệu Vương đành xuất hành, Lạn Tương Như đi theo hộ giá. Liêm Pha tiễn vua đến biên giới, dặn dò: "Chuyến này ước chừng không quá ba mươi ngày. Nếu quá hạn mà đại vương chưa về, thần sẽ tôn Thái tử lên ngôi để dập tắt tham vọng của nước Tần." Triệu Vương đồng ý, rồi cùng Tần Vương hội kiến.
Bình luận:
"Ha ha, đúng là một ngụ ý sâu xa."
"Hậu quả từ cái ch*t của Sở Hoài Vương còn đó."
"Triệu Vương đâu muốn chung số phận với Sở Hoài Vương năm xưa."
Sở Hoài Vương: "Đã có tiền lệ rồi, may mà Triệu Huệ Văn Vương không bị giam cầm."
Doanh Tứ: "Việc tốt của ngài đã khiến Tần vương mất danh nghĩa chính nghĩa."
Doanh Tắc: "Phụ vương khôn ngoan, cứ áp dụng chiến thuật hiệu quả này mãi, biết đâu lại thu phục được nước khác mà không cần chiến tranh."
Chương 236
Chương 195
Chương 233
Chương 367
Chương 6
Chương 7
Chương 6
Chương 7
Bình luận
Bình luận Facebook