Ngoài thư pháp có Thánh nhân, hội họa cũng có bậc thánh - Họa Thánh Cố Khải Chi! Cố Khải Chi học rộng tài cao, am hiểu hội họa nhân vật và tranh sơn thủy. Tác phẩm tiêu biểu của ông là "Nữ quan Châm Đồ" và "Lạc Thần Phú Đồ" với lối vẽ lấy hình truyền thần, ý vị sâu xa, đặt nền móng vững chắc cho hội họa truyền thống Trung Hoa. Ông được người đời ca tụng là Tam Tuyệt: Tài vẽ tuyệt luân, tài hoa tuyệt đỉnh, vẻ ng/u ngơ tuyệt diệu!

Khu bình luận:

"Nữ quan Châm Đồ" miêu tả quy phạm đạo đức cung đình do Trương Hoa biên soạn thời Tây Tấn, dùng để răn dạy Giả Nam Phong. Bản sớm nhất hiện là bản gốc từ nhà Đường, bị liên quân tám nước cư/ớp đi trong chiến tranh, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Anh ở Luân Đôn."

Tại sao lại là liên quân tám nước!

Khang Hi, Ung Chính cùng quần thần nhà Thanh đột nhiên căng thẳng.

"Lạc Thần Phú Đồ" dựa trên tác phẩm nổi tiếng "Lạc Thần Phú" của Tào Thực, là một trong thập đại danh họa truyền thế của Trung Hoa!"

Tạ Sa từng chiêm ngưỡng nguyên tác của Cố Khải Chi, không khỏi cảm thán: "Từ khi sinh ra tới nay, chưa từng thấy ai như vậy!"

...

Thi nhân nổi danh nhất thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều phải kể đến Đào Uyên Minh. Ông tên Tiềm, tự Nguyên Lượng, hiệu Ngũ Liễu Tiên sinh, được đời gọi là Tĩnh Tiết Tiên sinh...

Vương Hoằng - Thứ sử Giang Châu - vui mừng cầm rư/ợu đến thăm bạn hiền: "Tiên sinh, trên màn trời đang nói về ngài đấy."

Đào Uyên Minh hơi say nhưng vẫn tỉnh táo: "Không ngờ lão phu này cũng được lên màn trời."

Đào Uyên Minh sống vào cuối thời Đông Tấn đến đầu triều Tống. Tổ tiên ông là danh tướng Đào Khản thời Đông Tấn - người có công lớn trong việc xây dựng và củng cố chính quyền, phục vụ quân đội 41 năm, làm đến chức Thứ sử Kinh Châu. Nhưng do xuất thân hàn vi, dù lập nhiều chiến công vẫn không thể gia nhập hàng ngũ thế gia vọng tộc, đến khi qu/a đ/ời vẫn đường hoạn lộ gập ghềnh.

Trong thời đại quyền lực bị các môn phiệt sĩ tộc đ/ộc chiếm, chính trị hủ bại, quan trường mục nát, chế độ cửu phẩm trung chính chặn đường tiến thân của kẻ hàn môn, Đào Khản đã là trường hợp xuất chúng hiếm hoi.

Đến đời Đào Uyên Minh, gia thế sa sút. Cha mất sớm, nhà nghèo, thuở nhỏ sống cảnh cơm áo không đủ. Ông từng học kinh điển Nho gia, nuôi chí "Mãnh chí dật tứ hải" (Chí lớn vươn khắp bốn biển), viết nên câu "Thịnh niên bất trùng lai, nhất nhật nan tái thần. Cập thì đương miễn lệ, tuế nguyệt bất đãi nhân" (Tuổi trẻ không trở lại, ngày qua khó quay về. Gắng sức đúng lúc, năm tháng chẳng đợi ai) để tự khích lệ. Nhưng tâm h/ồn ông vẫn đắm say với non nước điền viên: "Thiếu vô thích tục vận, tính bản ái khâu sơn" (Trẻ không hợp phong tục, vốn tính yêu núi đồi). Gánh nặng cơm áo khiến chàng trai trẻ không thể thoát khỏi mạng đời...

Năm 20 tuổi, Đào Uyên Minh phải ra làm quan để nuôi gia đình. Năm 29 tuổi, ông nhậm chức Tế tửu Giang Châu rồi sớm từ quan. Sau đó, ông từng ngắn ngủi làm Tham quân dưới trướng Hoàn Huyền và Lưu Dụ. Cuộc sống bon chen khiến ông thấu hiểu sự đen tối nơi quan trường, càng thêm nhớ thốn chốn điền viên: "Bó điểu luyến cựu lâm, trì ngư tư cố uyên" (Chim lồng nhớ rừng xưa, cá chậu nhớ vực sâu).

Năm Nghĩa Hi đầu tiên, Lưu Dụ đuổi Hoàn Huyền đón vua về. Năm 41 tuổi, Đào Uyên Minh lần cuối làm quan với chức Huyện lệnh Bành Trạch.

Đúng lúc Thái thú điều động Đốc Bưu đến đây thanh tra, tuy chức quan nhỏ nhưng có thể ảnh hưởng đến đ/á/nh giá của Huyện lệnh. Đào Uyên Minh không muốn xu nịnh kẻ tiểu nhân, quyết định treo ấn từ quan, chính thức lui về sống ẩn dật. Thực tế thời gian ông làm quan chưa đầy ba năm.

Đào Uyên Minh lắc đầu: "Lẽ nào vì năm đấu gạo mà phải cúi đầu trước kẻ tiểu nhân?"

Trải qua hơn mười năm phiêu bạt khổ ải, nội tâm ông vô cùng đ/au khổ: "Ngày trước từng đi phương xa, mãi đến tận Đông Hải. Đường xa vạn dặm, phong ba ngăn lối." Thứ khiến chàng trai trẻ đầy chí hướng từ bỏ hy vọng chính là thế đạo hỗn lo/ạn đen tối!

Ông như một ẩn sĩ siêu phàm thoát tục, bước qua trường danh lợi, bị đời va đầu chảy m/áu, cuối cùng tìm về chốn đào nguyên trong tim. "Chim lồng lâu ngày, nay trở về với tự nhiên." Ông sống cuộc đời lý tưởng: "Khai hoang nơi nam dã, vụng về giữ ruộng vườn. Mảnh đất mười mẫu, gian nhà tranh đơn sơ." "Hái cúc dưới giậu đông, thong dong ngắm Nam Sơn"!

Vương Hoằng nâng chén kính ngưỡng bậc tài tử: "Tiên sinh danh tiếng lừng lẫy, sau này có dự định gì?"

Chủ soái Kiến Khang Lưu Dụ sắp ban lệnh chiêu m/ộ hiền tài, không biết tiên sinh có muốn ra làm quan nữa chăng?

Đào Uyên Minh thản nhiên đáp: "Hậu thế nói rất đúng, lão phu đã tìm được chốn đào nguyên của mình, không muốn va chạm trần thế nữa. Sứ giả nếu có thời gian, cùng lão phu uống vài chén là đủ."

Vương Hoằng cười đáp: "Về sau hẳn nhiều người đến mời rư/ợu tiên sinh, chắc tôi khó mà tranh được chén thanh nhã."

Hai người nâng chén nhìn nhau cười.

Khác với những kẻ ẩn dật giả danh chỉ biết nói suông, cuộc sống điền viên của Đào Uyên Minh gắn với công việc đồng áng. Thơ ông ca ngợi lao động chân chính và khát vọng xã hội đại đồng - điều quý giá trong thời đại ấy, nên mới được hậu thế tôn sùng!

Bình luận:

"Ấm áp lòng người xa, lưu luyến khói bếp nhà. Chó sỵn trong ngõ sâu, gà gáy đầu cành dâu."

"Trồng đậu chân núi Nam, cỏ nhiều đậu lưa thưa. Sớm ra nhổ cỏ dại, trăng lên vai cuốc về..."

"Tiếc thay thời ấy chuộng văn phong kiều diễm xa hoa, thơ Đào Uyên Minh không được trọng vọng. Tuổi già sống cảnh cơ hàn, rư/ợu phải đợi bạn đến mới có. Mãi đến khi thi nhân nhà Đường vấp phải hoạn lộ, nếm trải đắng cay, mới tìm thấy chốn đào nguyên của ông trong sách vở."

Lý Thế Dân kinh ngạc: "Chẳng lẽ thi nhân Đại Đường cũng lâm cảnh khốn cùng như Liễu tiên sinh?"

"Tô Thức là người hâm m/ộ lớn của Đào Uyên Minh, đ/á/nh giá rất cao và làm 109 bài thơ họa lại tác phẩm của ông."

Đào Uyên Minh đặt chén xuống, muốn xem hậu thế họa thơ mình - thú vui tao nhã của văn nhân.

Vương Hoằng chợt nhớ: "Thiên mệnh nhiều lần nhắc đến thơ Tô Thức, vốn phóng khoáng hào sảng mà còn mang phong vị điền viên?"

Đáng tiếc thiên mệnh không trích dẫn đủ 100 bài thơ ấy.

"So với Đào Uyên Minh, Tô Thức tiêu sái hơn. Không chịu hợp tác với phe cánh triều đình, ông làm quan địa phương vì dân. Cuộc đời phong phú và giá trị hơn nhiều!"

Tô Thức nói: "Thiên mệnh quá khen rồi, thơ của Uyên Minh nhìn thong thả nhẹ nhàng, xem quen mới thấy câu chữ kỳ lạ... Đại khái tài cao ý xa, chỗ ẩn chứa thật kỳ diệu, dùng từ tỉ mỉ hết mực, mới có thể được như vậy. Giống như voi lớn vận chuyển cây cầu, không thấy dấu vết đục đẽo."

Thần tượng của ta là nhất, ngay cả ta cũng không thể so sánh bằng!

"Văn xuôi của Đào Uyên Minh cũng chẳng kém thơ, 'Ngũ Liễu Tiên Sinh Truyện' là tự truyện của ông, 'Quy Khứ Lai Từ' viết về niềm vui thoát khỏi quan trường trở về đồng quê. 'Đào Hoa Nguyên Ký' lấy cuộc sống dân thường làm cảnh, vẽ nên thế giới lý tưởng..."

Âu Dương Tu nhận xét: "Triều Tấn không có văn chương, chỉ có 'Quy Khứ Lai Từ' của Đào Uyên Minh là đáng kể."

"Tổ sư của ẩn sĩ xưa nay!"

"Người mở đầu thơ điền viên!"

"Việc ẩn cư của Đào Uyên Minh không phải trốn tránh hiện thực, mà là giữ vững phẩm cách cao quý giữa xã hội đen tối, không a dua theo thói đời, như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh."

Lý Bạch ngâm: "Uyên Minh quay về, không đua chen danh lợi. Chẳng màng chén rư/ợu quý, chỉ thích ngắm cúc vàng. Mời người áo vải, cười nói bên hoa..."

– Loại thời gian tiên cảnh này, dù đế vương tướng quân đến mời cũng chẳng đổi!

Bạch Cư Dị ca ngợi: "Ngọc không dính bụi, phượng chẳng mổ x/á/c thối... Thu thuế không nổi, thật là bậc hiền nhân... Không màng rư/ợu ngon, không thích đàn cầm. Chỉ ngưỡng m/ộ phong thái ông, đến già vẫn giữ tâm h/ồn thanh bần."

– Gh/en tị với cuộc sống tự do của Ngũ Liễu tiên sinh!

[ Ngoài Đào Uyên Minh, còn có Tạ Linh Vận khai sáng thơ sơn thủy, đưa cảnh sắc thiên nhiên vào thơ văn. ]

Lý Bạch viết: "Nơi Tạ Công dừng chân nay vẫn đó, suối xanh vượn hú vang rừng. Ước được như Tạ Công xưa, leo mây trèo thang mây..."

Bình luận:

– Tạ Linh Vận là cháu nội Tạ Huyền - chủ tướng trận Phì Thủy, xuất thân danh gia vọng tộc, đáng lý công danh thuận lợi. Nhưng ông sống vào cuối triều Tấn, khi vinh quang họ Tạ đã tàn phai.

– Sau khi Lưu Dụ soán ngôi lập nhà Tống, Tạ Linh Vận tiếp tục làm quan nhưng xuất thên khiến ông không hợp với triều đại mới. Tính tình cực đoan, thường vi phạm pháp luật, gi*t hại môn khách. Tống Văn Đế chỉ coi ông là văn nhân trang trí, còn ông tự cho mình là trung thần lương tướng.

– Dùng thuyết nhu cầu của Maslow để phân tích: Tạ Linh Vận thỏa mãn nhu cầu sinh lý, an toàn, xã hội, được tôn trọng, nhưng không đạt được nhu cầu tự hoàn thiện.

– Để được vua ban thưởng, ông gièm pha triều đình. Bị giáng chức thì bỏ bê công việc, mải mê du ngoạn.

Tống Văn Đế Lưu Nghĩa Long lạnh lùng: "Bỏ bê nhiệm vụ, tự cho mình hơn người! Đại Tống của trẫm không thiếu kẻ chỉ biết làm thơ."

Tạ Hối nhiều lần khuyên can nhưng Tạ Linh Vận chẳng nghe. Có lẽ với ông, tài năng và tính cách cực đoan tỷ lệ thuận với nhau.

– Dựa vào gia tộc hùng mạnh, Tạ Linh Vận sống xa hoa, sai người khai núi đào hồ bất chấp ảnh hưởng đến dân lành.

"Quá đáng tiếc, Tạ Linh Vận là thần tượng lớn của Lý Bạch, còn tưởng rằng đây là một người quân tử phong lưu như Lý Bạch cơ đấy!"

"Hành động của thần tượng không muốn khiến fan hâm m/ộ thăng hoa (bushi)"

Lý Bạch: "......"

Thần tượng của ông vẫn là người ông ngưỡng m/ộ nhất - Tạ Huyền. Ông và Tạ Linh Vận cùng được gọi là "Nhị Tạ", thơ ca cũng lấy phong cảnh thiên nhiên làm chủ đề. Hơn nữa Tạ Huyền không chỉ tài hoa hơn người mà con đường quan lộ cũng vô cùng thuận lợi, khiến Lý Bạch vô cùng ngưỡng m/ộ.

Tuy nhiên kết cục của Tạ Huyền cũng không tốt đẹp. Người quá tài giỏi khó tránh khỏi bị kẻ khác gh/en gh/ét. Ông bị Tư Vương Tú dâng thư mật báo lên hoàng đế Tiêu Trách khiến con đường quan lộ gặp nhiều trắc trở.

Sau khi Tiêu Trách qu/a đ/ời, Tiêu Loan tranh đoạt ngai vàng bằng những hành động tàn khốc khiến Tạ Huyền chán gh/ét chốn quan trường đen tối. Ông gửi gắm tâm tình vào núi sông, tìm ki/ếm sự giải thoát trong thiên nhiên.

Khác với Tạ Linh Vận cực đoan, Tạ Huyền sau khi bị giáng chức vẫn giữ vững bản tâm, tận tụy với chức trách, vì hạnh phúc của dân chúng địa phương mà được bách tính yêu mến.

Như ông đã viết trong "Du Kính Đình Sơn": "Ơn vua đã hết, việc nhà chẳng lo". Ông không hổ thẹn với bất kỳ ai!

Bình luận:

"Người khiến Tạ Linh Vận khâm phục chỉ có Tào Thực. Ông ta từng tự đắc: Tài học thiên hạ như một hộc gạo, Tào Tử Kiến chiếm tám đấu, ta một đấu, thiên hạ chia nhau một đấu."

"Ngoài Tào Thực ra, ta mới là nhất thiên hạ o( ̄ ヘ  ̄o#)"

Tào Thực khóe miệng nhếch lên, chợt thấy ánh mắt lạnh lùng của phụ thân liền vội nghiêm mặt, giữ vững t/âm th/ần.

Tào Tháo nheo mắt cười nhạo: "Loại tài tử phù phiếm này không đáng trọng dụng!" Sao trước đây ông không phát hiện con trai mơ mộng đến thế!

Những kẻ có tài trong Khổng Tước Đài chỉ là công cụ trang trí cho thơ phú, việc triều chính phải giao cho người thực tế.

"Vì không được người trên trọng dụng, Tạ Linh Vận bất bình, nhiều lần từ quan rồi lại bị triệu hồi. Cuối cùng bị vu tội mưu phản, ch*t trên đường lưu đày..."

Lưu Dụ nheo mắt: "Mưu phản!"

Nếu thực sự mưu phản đã không chịu cảnh lưu đày, e rằng bị vu oan.

Lưu Nghĩa Long thầm nhớ thơ Tạ Linh Vận: "Hàn mất nhụy hoa tàn, Tần vương thẹn với hổ, vốn là người giang hồ, trung nghĩa cảm quân tử."

—— Tạ Linh Vận so sánh Trương Lương b/áo th/ù cho Hàn Quốc với Tần Thủy Hoàng, tự đặt mình vào vị trí bề tôi nhà Tấn, chẳng phải là phản bội Đại Tống sao!

Lưu Nghĩa Long nghĩ đến công lao của Tạ Huyền với đất nước, không nỡ liên lụy hậu duệ họ Tạ, chỉ xử ph/ạt lưu đày đã là khoan dung.

————————

Cảm ơn mọi người đã ủng hộ từ 22/01/2024 đến 23/01/2024!

Đặc biệt cảm ơn: Hùng Bảo đáng yêu nhất - 3 bình nước;

Xin cảm ơn sự ủng hộ của mọi người, tôi sẽ tiếp tục cố gắng!

Danh sách chương

5 chương
21/10/2025 16:30
0
28/10/2025 16:52
0
27/11/2025 08:29
0
27/11/2025 08:22
0
27/11/2025 08:15
0

Có thể bạn quan tâm

Bình luận

Bình luận Facebook

Đăng nhập
Tài khoản của bạn bị hạn chế bình luận
Hủy
Xem thêm bình luận

Đọc tiếp

Đăng nhập để đồng bộ lịch sử trên nhiều thiết bị

Bảng xếp hạng

Top ngày

Bình luận
Báo chương xấu