Thể loại
Đóng
123
@456
Đăng xuất
Hồ Nhân đến Trung Nguyên sau tự xưng là chính thống Trung Quốc, gọi Đông Tấn là Dương Việt (vùng đất man di), còn các tộc người Hồ khác thì gọi là Nhung Địch (rợ phương Bắc).
Các thế gia lớn ở phương Bắc xây dựng ổ phòng thủ để tự vệ. Dân lưu tản tìm đến nương nhờ các chủ ổ này, hình thành các đội quân địa phương gọi là 'bộ khúc'. Một số chính quyền người Hồ có tầm nhìn biết cách thu phục lưu dân để tăng cường thế lực, nhưng đa phần dân chúng vẫn bị cư/ớp bóc như của cải.
Gia Cát Lượng chợt hiểu: 'Nơi nào có áp bức, nơi đó có đấu tranh! Cuối thời Tần, thời Hán mạt đều có khởi nghĩa nông dân, thời đại Ngũ Hồ lo/ạn Hoa hỗn lo/ạn thế này sao không thể có?'
Lưu Bị thở dài: 'Xin sống... Trong cảnh lo/ạn lạc, cái giá của sự sinh tồn thật đ/au lòng...'
Trong khi các quân đội khác chiến đấu vì quốc gia, vì thủ lĩnh hay danh dự, thì đội quân khởi nghĩa này chiến đấu đơn thuần chỉ để tồn tại!
Cuối thời Tây Tấn, người Hung Nô và tộc Yết ở Sơn Tây nổi dậy cư/ớp phá khiến dân Tịnh Châu lầm than. Dưới sự tổ chức của Tư Mã Đằng, hơn hai vạn hộ dân chạy nạn đến Ký Châu. Trên đường đi, họ tự vệ để bảo vệ gia đình, từ nông dân trở thành quân đội - đó là tiền thân của 'Xin sống quân'!
Sau khi Đông Tấn dời về Nam, mâu thuẫn chính ở phương Bắc là xung đột Hán - Hồ. Xin sống quân dần trở thành lực lượng chống lại các chính quyền người Hồ như Tiền Triệu, Hậu Triệu.
Trải qua nhiều năm chiến đấu, họ trở nên thiện chiến và có tổ chức ch/ặt chẽ, hoạt động khắp phương Bắc, kiềm chế khiến quân Hồ không thể nam tiến.
Cuối thời Hậu Triệu, đại thần người Hán là Lý Nông chạy đến lãnh địa Xin sống quân và được tôn làm thủ lĩnh. Cha của Nhiễm Mẫn vốn là thành viên đội quân này. Dưới sự ủng hộ của dân Hán và Lý Nông, Nhiễm Mẫn lên ngôi, lập ra nước Nhiễm Ngụy - thời kỳ huy hoàng nhất của Xin sống quân!
Các thủ lĩnh khởi nghĩa như Trần Thắng - Ngô Quảng thời Tần, quân Xích Mi thời Hán, hay anh em Trương Giác đều hướng về đội quân này. Dù thất bại, nhưng tinh thần phản kháng của họ khiến hậu thế thấy rằng: 'Con đường chúng ta không đơn đ/ộc!'.
Lý Nông bị Nhiễm Mẫn s/át h/ại vì gh/en gh/ét quyền lực. Đến cuối thời Đông Tấn, Xin sống quân vẫn hoạt động ở phương Bắc - 113 năm sau ngày rời Tịnh Châu!
Mang sứ mệnh bi thương từ lúc thành lập, họ chiến đấu vì miếng ăn, vì niềm tin, trở thành đội quân khởi nghĩa nông dân đoàn kết nhất, hoạt động rộng nhất và tồn tại lâu nhất trong lịch sử.
Trương Giác hỏi: "Chẳng phải quân khởi nghĩa trước đây từng có những thống lĩnh hùng mạnh sao?"
Trương Lương đáp: "Họ chỉ là dân thường tụ tập tự vệ, không có cương lĩnh, không mục tiêu, cũng không có người như huynh trưởng có thể vẫy tay hô hào là mọi người hưởng ứng."
Trương Bảo nói: "Thất bại của họ hầu như đã được định trước."
[Thời kỳ này, người Hán di cư xuống phương Nam. Vô số người Hán chạy lo/ạn đến Giang Nam, dung hợp với các dân tộc Bách Việt, thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hóa phương nam. Ở phương Bắc, người Hồ di cư ồ ạt với quy mô hơn 50 lần, có khi lên tới hàng trăm vạn người, lại tập trung ở khu vực trọng yếu. Bắc Ngụy còn đề ra khẩu hiệu "Giải tán các bộ lạc, phân chia đất định cư", phá vỡ chế độ thủ lĩnh bộ lạc, thực hiện đăng ký hộ khẩu như người Hán.]
Lưu Triệt trầm ngâm: "Nếu người Hồ đều nói tiếng Hán, viết chữ Hán, tổ chức chính quyền như người Hán, thì họ có còn là người Hồ nữa không?"
Câu hỏi này ngay cả Đổng Trọng Thư cũng không trả lời được.
Thời Tây Hán đầu, không có khái niệm "người Hán", chỉ có người của bảy nước. Sau khi Hán Vũ Đế đ/á/nh đuổi Hung Nô, bách tính Trung Nguyên mới công nhận nhà Hán và tự hào là dân của triều Hán.
[Xuyên suốt lịch sử, dung hợp dân tộc là xu thế tất yếu. Ngày nay đã không còn Hung Nô, Tiên Ti, nhưng trong huyết mạch mỗi người Hoa đều lưu giữ dấu ấn của nhiều dân tộc khác nhau!]
Bình luận:
- "Sau ba trăm năm hỗn hợp, các tộc Hồ - Hán cuối cùng hình thành cộng đồng dân tộc mới - người Tùy và người Đường."
Dương Kiên, Độc Cô Già La, Lý Thế Dân và Trưởng Tôn hoàng hậu đều thấm thía điều này.
- "Chính quyền Tùy Đường kế thừa văn hóa đa nguyên của Bắc triều, thậm chí bị gọi là tập đoàn chính trị Hán tộc đã Hồ hóa."
- "Tùy Văn Đế sống lâu năm giữa người Tiên Ti, từng đổi sang họ Tiên Ti, lại cưới Độc Cô Già La - người gốc Hung Nô thuộc bộ tộc Hưu Chư."
- "Mẹ Lý Uyên là họ Độc Cô, vợ ông là Đậu Thị thuộc bộ lạc Tiên Ti. Hoàng hậu của Lý Thế Dân lại là người họ Trưởng Tôn. Điều này cho thấy Hung Nô, Tiên Ti đã hoàn toàn Hán hóa, trở thành một phần của dân tộc Trung Hoa."
- "Nhưng các sĩ phu Tống triều lại coi đây là vết nhơ của hoàng tộc Tùy Đường, tìm cách che giấu."
- "Chu Hi từng nói: 'Nhà Đường mang dòng m/áu Di Địch'. Trịnh Tư Tiêu thời Tống mạt cũng bảo: 'Họ Lý nhà Đường vốn là hậu duệ của Vương Lý Cảo - thực chất là giống Di Địch'."
Triệu Khuông Dận méo miệng, chỉ muốn xin lỗi hộ bọn sĩ phu Tống triều này. Gia tộc họ Triệu vốn ở Trác quận thuộc U Châu, sống lâu năm phương Bắc, chính ông còn không dám khẳng định dòng m/áu mình "thuần Hán".
Lưu Triệt im lặng. Danh xưng "người Hán" xuất hiện từ thời ông. Nếu truy ngược về thời Thương Chu, việc chinh phục các tộc Di Địch và đưa họ vào Trung Nguyên đã chứng tỏ: người Hán vốn là kết quả dung hợp của nhiều tộc người.
Lý Thế Dân cười khẩy một tiếng: "Đến mà không chịu trả lễ, các khanh hãy nhớ kỹ giúp trẫm. Mấy kẻ giảng giải chuyện nhà Tống theo thiên mệnh, ta Đại Đường cũng nên biên soạn sử sách cho họ."
Thấy bệ hạ hành động phóng túng như vậy, Ngụy Trưng vội khuyên can: "Bệ hạ cần gì phải so đo với người Tống? Như thế chỉ thêm mất mặt!"
[Thời kỳ Nam Bắc triều, đất Trung Nguyên bước vào giai đoạn chia c/ắt. So với thời Ngũ Hồ thập lục quốc, chính quyền các triều đại này tương đối ổn định hơn. Phương nam lần lượt trải qua bốn triều: Tống, Tề, Lương, Trần; phương bắc tương ứng là Bắc Ngụy, Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Tề và Bắc Chu.]
[Khi phương Bắc từ hỗn lo/ạn tiến tới thống nhất, trong lúc các vua Bắc Ngụy chí hướng thống nhất thiên hạ, thì phương Nam nhà Đông Tấn cũng xảy ra biến động lớn. Sau trận Phì Thủy, giới sĩ tộc Đông Tấn lại chìm đắm trong hưởng lạc, thói khoe giàu từ thời Tây Tấn bùng phát trở lại. Quyền thần Tư Mã Đạo Tử xây lâm viên riêng, đào hồ trúc, trồng cây quý, tốn kém vô số. Con trai hắn là Tư Mã Nguyên Hiển tham ô vô độ, khiến hoàng tộc càng giàu có. Bè đảng hắn cũng tham lam t/àn b/ạo, gây rối triều chính!]
[Sử sách ghi lại: Hình ph/ạt tàn khốc, quyền thần lộng hành, quan lại tham nhũng, dân chúng lầm than!]
[Trước cảnh thống trị hủ bại, các cuộc khởi nghĩa chống Đông Tấn nổi lên như nấm sau mưa. Người đầu tiên giương cờ phản kháng là Hoàn Huyền - con trai Hoàn Ôn, kế thừa di sản chính trị của cha. Hắn kh/ống ch/ế vùng thượng du Trường Giang, khiến triều đình Đông Tấn chỉ còn quản lý được 8 quận phía đông như Lâm Hải, Hội Kê. Vùng rộng lớn phía tây hoàn toàn thuộc về Hoàn Huyền.]
Bình luận:
"Chỉ còn tám quận phía đông để bóc l/ột thôi sao?"
"Tư Mã Đạo Tử không chỉ bóc l/ột dân thường, hắn còn bắt cả nô bộc của địa chủ đi lính. Việc này khiến cả địa chủ lẫn nông dân đều phẫn nộ."
[Người đầu tiên nổi dậy là Vương Cung - anh trai hoàng hậu Vương Pháp Tuệ của Tư Mã Diệu. Ông từ nhỏ đã chí lớn, cương trực, được Tư Mã Diệu trọng dụng. Đau lòng trước tội á/c của Tư Mã Nguyên Hiển, Vương Cung khởi binh thảo ph/ạt nhưng thất bại do Lưu Lao Chi phản bội.]
[Cái ch*t của Vương Cung khiến Đông Tấn lộ rõ suy yếu. Tên có dã tâm là Tôn Ân nhân cơ hội tập hợp vài trăm người trên đảo khởi nghĩa. Chỉ trong mười ngày, hắn chiếm được Cối Kê cùng tám quận phía đông, lực lượng lên tới mấy chục vạn người!]
Bình luận:
"Tôn Ân là hậu duệ Tôn Tú - thủ lĩnh khởi nghĩa thời Lo/ạn Bát Vương. Hắn theo Ngũ Đấu Mễ Đạo. Do triều đình Đông Tấn ưu đãi sĩ tộc phương Bắc mà áp bức sĩ tộc bản địa, gia tộc Tôn Ân sa sút nên mới nổi dậy."
Tôn Ân, kẻ tham vọng đen tối, đã lợi dụng lòng c/ăm th/ù của dân địa phương với các gia tộc quyền thế. Hắn tập hợp những tín đồ liều lĩnh của giáo phái Ngũ Đấu Mễ để cư/ớp bóc, đ/ốt phá và gi*t chóc khắp nơi, gây ra vô số tội á/c tày trời. Ngay cả trẻ sơ sinh cũng không thể thoát khỏi thảm họa này.
Bình luận:
- "Hội Kê và Ngô quận vốn là nơi tập trung của các gia tộc quyền thế. Dân chúng ở đây đã quá mệt mỏi vì bị áp bức."
- "Tôn Ân chỉ là kẻ tham vọng thiếu tầm nhìn, cư/ớp công cuộc khởi nghĩa của nông dân."
- "Quân của hắn đi đến đâu là gi*t quan chức, cư/ớp tài sản, đ/ốt kho tàng, lấp giếng nước. Những hành động này không giúp dân chúng mà chỉ phá hủy trật tự địa phương."
- "Khi khởi nghĩa mới bùng n/ổ, 8 quận đã hưởng ứng. Tôn Ân vui mừng tuyên bố: 'Khởi nghĩa đã thành công, chúng ta sớm được hưởng phúc!'"
- "Sau khi nghe tin Lưu Lao Chi dẫn đại quân đến đ/á/nh, Tôn Ân liền bỏ chạy đến Hội Kê cùng của cải và phụ nữ cư/ớp được, nói rằng: 'Ít nhất ta có thể chiếm cứ đông bộ Chiết Giang như Việt Vương Câu Tiễn!'"
- "Khi quân triều đình thu hồi 8 quận và áp sát bờ biển, Tôn Ân lại hạ thấp mục tiêu: 'Bỏ chạy cũng chẳng x/ấu hổ!' rồi dẫn tất cả trốn ra hải đảo."
Năm 402, Tôn Ân thất bại khi tấn công quận ven biển và nhảy xuống biển t/ự s*t. Em rể hắn là Lư Tuần tiếp tục dẫn quân phản lo/ạn chống lại triều Đông Tấn, sử sách gọi là Lo/ạn Tôn Ân - Lư Tuần.
Bình luận:
- "Trước khi trốn ra hải đảo, Tôn Ân còn được xem là lãnh tụ khởi nghĩa. Nhưng Lư Tuần chỉ là giáo phái Ngũ Đấu Mễ gây lo/ạn."
- "Họ đã làm hoen ố danh tiếng Đạo giáo!"
- "Những người dùng Đạo giáo khởi nghiệp như Trương Giác, Trương Lỗ cực kỳ kh/inh thường Tôn Ân."
- "Lo/ạn Tôn Ân thực chất là phản kháng của tầng lớp quý tộc sa sút trước sự lũng đoạn của các đại gia tộc. Hắn đặc biệt nhắm vào các danh gia vọng tộc, nhiều thành viên họ Vương và họ Tạ như Tạ Sa đều bị s/át h/ại."
Tạ Sa: ……
Lửa mạnh nấu dầu, hoa tươi trên gấm - luôn có kẻ vui khi người khác đ/au khổ. Tạ Sa lần đầu cảm thấy bất lực. Sức mạnh cá nhân dù lớn đến đâu cũng không thể thay đổi vận mệnh thiên hạ. Hắn không thể phá vỡ sự thống trị của các đại gia tộc từ bên trong, chỉ có thể phần nào cải thiện đời sống dân chúng.
————————
Cảm ơn các đ/ộc giả đã ủng hộ từ 03/01/2024 đến 04/01/2024! Đặc biệt cảm ơn:
- Không nói không biết: 68 bình
- Tinh nguyệt nhặt quang, tĩnh vũ: 5 bình
- Trần Tiểu meo: 1 bình
Tôi sẽ tiếp tục cố gắng!
Chương 7
Chương 7
Chương 8
Chương 6
Chương 6
Chương 9
Chương 9
Chương 6
Bình luận
Bình luận Facebook